Question
stringlengths
0
11.9k
Answer
stringlengths
0
26.8k
Nhà tôi có 1 thửa đất chính chủ sổ đỏ mang tên bố và mẹ ruột của tôi ở Hà Nội, trong sổ hộ khẩu gia đình chỉ có tên bố, mẹ, bà nội và tôi. Ông nội đã mất năm 1974 ở dưới quê, không có giấy chứng tử và không sống cùng nhà tôi. Hiện tại, bố và bà nội tôi cũng đã mất và không để lại di chúc, mẹ tôi muốn chuyển tên sổ đỏ cho tôi nhưng bố tôi còn 2 con riêng sống ở nơi khác (chưa từng sống tại khu đất nhà tôi, cũng không có tên trong sổ hộ khẩu). Cả 2 đều lập gia đình và sống ở nơi khác, đã được thừa kế tiền và đất của bố tôi cho khi còn sống. Vậy các luật sư tư vấn giúp 1) Khi làm giấy tờ sang tên sổ đỏ, có cần thiết phải xin chũ ký xác nhận không thừa hưởng tài sản của 2 người con riêng kia không? Tôi có phải chia mảnh đát đang sống cho 2 người kia nếu không xin được chữ ký xác nhận từ bỏ tài sản thừa kế của 2 người kia không? 2) Khi tôi lên công an quận họ yeu cầu giấy chứng tử của ông nội tôi, điều này có hợp lý không? Họ nói phải có giấy chứng tử vì biết đâu ông tôi còn sống và về đòi đất, kiện tụng khi sang tên sổ đỏ cho tôi. (khi mà thửa mua năm 1980 chỉ đứng tên bố và mẹ tôi.) 3) Trong trường hợp xấu nhất tài sản sẽ bị chia như thế nào? Nhân tiện tôi sống ở hà nội có thể tới văn phòng luật sư nào uy tín gần nhất ạ. Rất xin lỗi vì tôi không rõ phải đăng bài vào mục đất đai hay thừa kế. Kính mong sự chia sẻ của quý luật sư.
QSDĐ mà bạn nêu thuộc sở hữu của ba mẹ bạn. Khi ba bạn chết mà không để lại di chúc thì phần tài sản của ba bạn (50% phần đất) sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: Cha mẹ, vợ và các con (nếu những người này còn sống) Trường hợp của bạn phải thực hiện việc phân chia di sản thừa kế (phần tài sản của bố bạn) tại cơ quan công chứng. Trong quá trình thực hiện bạn phải làm cam kết rằng ông nội chết khi nào và không có chứng tử. Khi làm thủ tục này nhất thiết phải có con riêng của ba bạn tham gia nữa hoặc những người này ủy quyền cho bạn hoặc người khác làm thay họ. Văn bản từ chối nhận di sản chỉ có giá trị khi nó được công chứng hoặc chứng thực trong thời gian không quá 06 tháng kể từ ngày ba bạn chết.
Tôi muốn nhờ Luật sư tư vấn cho trường hợp của gia đình tôi: Nhà tôi có 2 chị em gái, bố tôi mất năm tôi 7 tuổi nên 2 chị em sống với mẹ và ông bà ngoại ở Hà Nội. Gia đình nhà nội tôi ở quê có 01 mảnh đất vốn vẫn là nơi thờ cúng và là nơi ở của bà nội tôi (hiện còn 1 mình bà nội ở đó, ông nội tôi là liệt sỹ và các cụ đã qua đời hết) Ông bà nội tôi có 3 người con, 2 gái 1 trai (bố tôi đã mất), ông nội có 1 ng vợ 2 và có 2 người con trai khác nữa nhưng không sống ở đó. Cách đây 1 năm bà nội tôi đã tự ý sang tên sổ đỏ 1/2 số đất đó cho cô ruột của tôi mà không hỏi ý kiến các thành viên khác trong gia đình. Vậy chúng tôi muốn hỏi Luật sư việc làm trên của bà nội tôi là có đúng pháp luật hay không? Nay chúng tôi muốn 1/2 mảnh đất còn lại được chia công bằng cho 2 người con còn lại (không tính các con vợ 2). Riêng cô ruột tôi đã nhận 1/2 rồi thì thôi. Bà tôi hiện vẫn còn sống, làm như vậy có được không? Mong Luật sư tư vấn giúp cho thỏa đáng nhất!
Về nguyên tắc bà nội bạn được quyển định đoạt 1/2 thửa đất (tài sản chung của vợ chồng). Hiện tại do ông nội bạn đã mất nên phát sinh quan hệ thừa kế theo đó những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông nội bạn gồm: bà nội bạn, cha bạn và các cô, chú ruột của bạn (bao gồm cả hai chú của con bà hai) nếu bà hai và ông nội bạn được công nhận là hôn nhân thực tế thì hàng thừa kế sẽ bao gồm cả bà nữa. Do vậy hiện tại để định đoạt khối di sản đó bắt buộc phải thực hiện việc khai nhận di sản thừa kế sau đó mới làm các bước tiếp theo được.
Xin hỏi LS tư vấn:  1/ Thủ tục sang tên giấy chứng nhận QSD đất và trình tự như thế nào? ( đã có giấy sổ đỏ rồi) 2/ Bên bán đất cần phải ký các giấy tờ gì? 3/ Thời gian cấp sổ là bao nhiêu ngày? 4/ Đất thuộc về xã thì cần ký những giấy tờ gì?
1. Thủ tục: - Các bên ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ tại công chứng hoặc ủy ban nhân huyện - Liên hệ cơ quan thuế để đóng thuế - Liên hệ phòng tài nguyên để đăng bộ (cập nhật hoặc cấp đổi sổ) 2. Thời gian cập nhật hoặc đổi sổ tùy thuộc từng địa phương từ 15 đến 30 ngày. 3. Giấy tờ gồm giấy CNQSDD, tờ khai trước bạ, cmnd hộ khẩu các bên, bên bán nếu độc thân thì kèm giấy xác nhận tình trạng độc thân, nếu có vợ/chồng thì cả 02 cùng ký kèm giấy kết hôn
Mong luật sư tư vấn cụ thể để tôi có hướng giải quyết tốt ạ. Chồng tôi và em chồng có chung nhau mua 1 mảnh đất 50m2, trị giá 850 triệu đồng. Mảnh đất này do bạn thân của e chồng giới thiệu. Chúng tôi đã trả 750 triệu đồng, giữ lại 100 để chủ đất hoàn tất các giấy tờ. Chúng tôi cũng chỉ thoả thuận bằng giấy tờ về số tiền, mà ko có ràng buộc gì với bên chủ đất (vì cũng gọi là quen biết). Tuy nhiên, đã 2 năm nay, chủ đất vẫn chưa hoàn thiện được các giấy tờ chuyển nhượng. Hiện chúng tôi rất bức xúc, chúng tôi muốn thảo 1 bản hợp đồng mà trong đó có cam kết của bên chủ đất rằng nếu ko hoàn thiện giấy tờ trong 3 tháng thì fai hoàn trả tiền cho chúng tôi, thì theo luật sư chúng tôi có làm được như thế ko? Hoặc chúng tôi phải làm gì và dựa theo các văn bản pháp luật nào? Xin luật sư giúp đỡ, tôi xin cám ơn!
Nếu cách đây hai năm hai bên thực hiện thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không công chứng hợp đồng và không đăng ký sang tên thì thỏa thuận đó chưa phù hợp với quy định pháp luật. Nếu trong thỏa thuận đó có điều khoản đặt cọc và phạt cọc thì bạn có thể căn cứ vào quy định về phạt cọc đó để yêu cầu bên chuyển nhượng phải thực hiện hợp đồng. Nếu bên chuyển nhượng vẫn cố tình không hoàn tất thủ tục chuyển nhượng để sang tên cho bạn thì bạn có thể khởi kiện đến Tòa án để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Nếu hợp đồng chỉ chưa đảm bảo về mặt hình thức (có giấy chứng nhận QSD đất, thửa đất đủ điều kiện chuyển nhượng nhưng hai bên chưa công chứng hợp đồng) thì Tòa án sẽ để một khoảng thời gian để hai bên tiến hành thủ tục. Nếu hai bên vẫn không thực hiện thủ tục sang tên thì Tòa án sẽ tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu và bắt buộc bạn phải trả lại đất và bên chuyển nhượng phải trả lại bạn số tiền đã nhận, đồng thời họ phải bồi thường thiệt hại cho bạn theo quy định của pháp luật.
Năm 2005 tôi có mua một miếng đất của vợ chồng bà Hoà. Lúc đó vợ chồng bà Hoà có ủy quyền cho một người con toàn quyền quyết định việc mua bán. Do vì là chỗ quen biết nhau từ trước nên tôi chỉ ký giấy tay với người con đó. Nay ngoái vợ chồng bà Hoà đều qua đời. Vậy tôi phải làm những thủ tục gì để sang tên thửa đất đã mua?
Theo quy định tại khoản 4 Điều 589 Bộ luật Dân sự, hợp đồng ủy quyền chấm dứt khi bên ủy quyền chết. Như vậy, khi vợ chồng bà Hoà chết thì việc ủy quyền cho người con làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất (thay mặt họ) đã hết hiệu lực. Diện tích đất của vợ chồng bà Hoà giờ trở thành di sản thừa kế và thuộc quyền sử dụng chung của những người thừa kế theo pháp luật của người chết. Người con trên và những người khác thuộc hàng thừa kế thứ nhất cần phải làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế, rồi sau đó tất cả đồng thừa kế (hoặc người được ủy quyền) sẽ thực hiện các thủ tục sang tên đất cho ông/bà
Ông nội tôi sinh được 7 người con và đã chia đất cho 7 người bằng nhau. Nhưng khi làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chia ra cho từng người thì ông nội tôi chỉ làm cho 6 người. Riêng mảnh đất ba tôi ở, ông nội tôi cho ở chứ không làm giấy chứng nhận và tách sổ cho ba tôi vì ba tôi không thuận với ông nội. Vậy sau này nếu ông nội tôi mất mà vẫn không làm giấy tách quyền sở hữu cho ba tôi thì mảnh đất ba tôi ở sẽ bị chia đều không?
Ðiều 168 Bộ luật dân sự quy định về thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản như sau: - Việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. - Việc chuyển quyền sở hữu đối với động sản có hiệu lực kể từ thời điểm động sản được chuyển giao, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Theo quy định trên, bố bạn được ông nội cho một phần thửa đất nhưng chưa tiến hành thủ tục tách thửa và sang tên quyền sử dụng theo quy định của pháp luật thì bố bạn chưa phải là chủ sử dụng thửa đất. Hiện tại, ông nội bạn vẫn là chủ sử dụng của thửa đất đó. Đến thời điểm ông nội bạn mất, nếu thửa đất chưa được sang tên bố bạn thì thửa đất được coi là di sản do ông nội bạn để lại và được chia thừa kế. Nếu ông nội bạn lập di chúc thì thửa đất được chia cho những người thừa kế theo di chúc. Nếu ông nội bạn không để lại di chúc thì di sản được chia cho những người thừa kế theo pháp luật, theo thứ tự sau đây: - Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; - Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; - Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Tôi mua 1 căn nhà cấp 4 có sổ hồng đứng tên: Bà Lê Thị Hiền là người đại diện của những người được thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của ông Nguyễn Văn Cư (chồng bà Hiền). Cho tôi hỏi nếu tôi tiến hành sang tên đội chủ thì có được không va phải cần những giấy tờ gì? Và những người được thừa kế được nhắc trong sổ hống là những ai, có phải là những người con của ông Cư và bà Hiền?
- Với giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất như vậy thì bạn vẫn có thể thực hiện được thủ tục sang tên, đổi chủ. Thủ tục sang tên cần có chữ ký của tất cả các thừa kế của ông Nguyễn Văn Cư hoặc các thừa kế của ông Cư phải thỏa thuận để chuyển đứng tên cá nhân của một người thừa kế của ông Cư, sau đó người này sang tên lại cho bạn. - Để thực hiện thủ tục, bạn cần yêu cầu gia đình bà Hiền cung cấp các giấy tờ sau: + Bản chính GCN QSD đất; + CMND và Sổ hộ khẩu của tất các các thừa kế của ông Cư (cha, mẹ, vợ, con của ông Cư); + Văn bản khai nhận thừa kế của ông Cư trước đây (để xác định các thừa kế là ai); + Đăng ký kết hôn hoặc giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân của những người trên.
Em muốn bán 1 lô đất vậy thủ tục chuyển đổi sổ đỏ sang tên cho chủ mới như thế nào và lệ phí hết bao nhiêu?
Nếu bạn chuyển nhượng toàn bộ thửa đất đó cho người khác thì cần đến phòng/Văn phòng công chứng để ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định. Sau khi hợp đồng chuyển nhượng được ký kết và công chứng thì bạn nộp hợp đồng chuyển nhượng đó cùng CMND, Hộ khẩu của hai bên, Bản chính GCN QSD đất và đăng ký kết hôn của bên chuyển nhượng vào phòng TN&MT để đăng ký sang tên cho bên nhận chuyển nhượng... Khi thực hiện thủ tục chuyển nhượng thì phải nộp thuế thu nhập cá nhân là 2% giá trị chuyển nhượng và lệ phí trước bạ là 0,5% giá trị chuyển nhượng - trừ trường hợp được miễn giảm theo quy định pháp luật.
Luật sư thân mến! trước khi mất mẹ em có viết một di chúc chia cho 2 chị em, mẹ em mất năm 2007, sau khi mẹ em mất ,em trai em đã lấy sổ đỏ đổi tên mẹ sang tên em trai em.mà không cần chữ ký của em. Vì thời gian do em ko có nhà,đến năm 2008 em về và em trai em có cắt một phần đất theo như di chúc, (tặng cho chị) có giấy chứng nhận của phường xã,bây giờ em muốn làm và tách sổ đỏ nhưng không có sổ gốc, vì em trai em đi cầm vay nợ,xin hỏi luật sư,nếu em chưa làm được sổ đỏ, liệu em trai em có lấy lại đất đó được không? Và đất đó có phải là của em không hay vẫn là của em trai em? Xin luật sư cho em câu trả lời! em xin trân thành cảm ơn!
Nếu mẹ bạn để lại di chúc hợp pháp, phân chia di sản thừa kế cho bạn và em trai bạn thì phần di sản mẹ bạn để lại sẽ được chia theo di chúc nếu bạn không có văn bản từ chối nhận di sản thừa kế. Nếu em bạn làm sổ đỏ mang tên em bạn mà không có sự đồng ý của bạn thì bạn có thể khiếu nại về thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, qua đó để Cơ quan có thẩm quyền xem xét việc cấp giấy chứng nhận có trái luật hay không? Nếu trái pháp luật thì cơ quan đã cấp giấy sẽ thu hồi lại giấy chứng nhận đã cấp.
Cho e hỏi về việc sang tên sổ đất. Ba e tính cho chị của e đứng tên sổ đất của gia đình. Cho e hỏi thủ tục như thế nào ạ. Và mất bao lâu mới làm xong. E muốn hỏi thêm 1 câu nữa ạ. Các a/c cua e đã cắt hộ khẩu rồi có cần phải đi ký hợp đồng cho nhận nữa ko ạ. E xin cám ơn.
Trường hợp sổ đỏ hiện nay đứng tên Ba bạn thì khi tặng cho quyền sử dụng đất cho chị bạn chỉ cần Ba mẹ bạn ký hợp đồng tặng cho là được. Trường hợp sổ đổ trước đây được cấp cho hộ gia đình mà thời điểm cấp sổ các anh chị em bạn chưa cắt khẩu thì hợp đồng tặng cho cần chữ ký của tất cả những người thành niên có tên trong sổ hộ khẩu đó. Như vậy, để thực hiện thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị bạn, cần thực hiện thủ tục như sau: Thứ nhất, công chứng hợp đồng tặng cho tại văn phòng công chứng. Thứ hai, chuẩn bị hồ sơ đăng ký sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để nộp tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất làm thủ tục sang tên. Hồ sơ gồm: - Đơn đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất theo Mẫu số 09/ĐK, thông tư 24/2014/TTBTNMT - Hợp đồng tặng cho - Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất bản chính - Sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân.... * Thời gian sang tên ngày làm việc.
Ông bà nội tôi có 3 người con.bố tôi,một chú và một cô út.và một người con đầu là con riêng với chồng trước của bà nội (tc là 4).khi mất đi ông bà không để lại di chúc. Bố tôi đi bộ đội năm 1973 và công tác luôn trong nha trang.mảnh đất của ông bà để lại hiện gio bác tôi đang ở và đã có chia đất cho cô,chú tôi.còn lại bác đã làm hết sổ đứng tên bác trên S đất đã chia cho cô và chú tôi.(sổ đỏ bác tôi làm năm 2002).và cho tôi xin hỏi bố tôi được nhận thừa kế của ông bà tôi để lại là bao nhiêu trên S(1500m)? Và tại sao bác tôi lại được cấp sổ đỏ khi chưa được sự chấp thuận của bố tôi về S đất mà bác chưa chia cho bố tôi.nếu có kiện tụng tôi phải nộp đơn ở đâu và thủ tục giấy tờ thế nào
Nội dung bạn hỏi là tranh chấp về thừa kế quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất. Thẩm quyền giải quyết thuộc về tòa án nơi có bất động sản đó. Trước khi tòa án giải quyết thì các đương sự gửi đơn tới UBND xã, phường để được hòa giải theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, vụ việc của gia đình bạn chỉ được tòa án thụ lý giải quyết nếu ông bà bạn qua đời chưa quá 10 năm. Nếu ông bà bạn đã qua đời quá 10 năm thì hết thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế, tòa án sẽ không thụ lý giải quyết.
Gia đình mình có cho cho thằng A (cháu ruột) vay 500 triệu làm ăn, khoảng được một năm thì thua lỗ, nên gia đình mình lấy nhà của thằng A để trừ tiền,có bằng khoán hẳn hoi (đứng tên nó chưa sang tên cho bên nhà mình).. nhà thằng A cho ở trọ khoảng 15 phòng chưa ai ở và chưa câu điện nước, bên gia đình mình dọn vào ở được 6 tháng (có sửa chữa lại, và lắp điện nước). Trong thời gian đó thấy thằng A cần vốn nên tội nghiệp, nên nhà e cho nó mượn tiền + bằng khoán đất nhà nó đề nó vay mượn làm ăn tiếp.  A lấy bằng khoán đất đi cầm cố cho bên B, sau 3 tháng nếu không đóng lãi thì bằng khoán này thuộc về bên đó (có chữ ký, lăng tay của nó hẳn hoi). A không đóng lãi được nên bên B mới cầm bằng khoán này về xin chính quyền địa phương sang tên nhưng không được. Do bên mình có làm giấy viết tay bên ấp xác nhận chuyển nhượng đất của thằng A. . Sau đó bên B đem lên tỉnh chứng nhận nhưng không biết được không ( nếu được thì có đúng cơ sở pháp lý không) theo mình biết thì đất là do địa phương quản lý Một thời gian thấy ở tại nhà A thì thấy đường khó vào, gia đình mình mua đất gần chợ xây thêm một ngôi nhà nữa, nên đập  nhà A để lấy mấy thứ cần thiết về xây cho đỡ tốn kém. Khoảng vài tháng sau thì bên B đâm đơn kiện gia đình mình. Bên chính quyền kêu gia đình em ra thỏa thuận với bên B, vì cho là nhà e vi phạm luật hình sự vì đập phá nhà trái phép , và thỏa thuận với giá 200 triệu động.  Trường hợp này phải làm thế nào, nhờ luật sư tư vấn.
Nếu nhà A đã có bằng khoán (sổ đỏ, hoặc sổ hồng) thì A có quyền bán cho B. Việc mua bán thông quá ấp như e không có giá trị pháp lý. Việc đập nhà như thế nói về lý là không đúng, nhưng do thực tế sự việc có mua bán và đang tranh chấp nên yêu cầu đòi 200 triệu là quá đáng. em nên nhờ luật sư kết hợp cùng gia đình để họ có thể tìm hướng giải quyết tốt hơn khi thương lượng đàm phán với bên B.
Ông nội em mất có viết di chúc để lại cho bố em 1 phần đất của ông (Bố em là con riêng của ông).Vấn đề là ông có 7 người con gái,nhưng có 4 cô con gái và bà nội đồng ý để lại đất cho bố em.Còn 3 người con gái còn lại thì không đồng ý.Bố em có ra UBND xã làm sổ đỏ để sang tên đổi chủ nhưng UBND xã ko làm cho và bào phải có chữ ký của tất cả các người con gái của ông thì mới hợp pháp.Em xin hỏi là có phải luật thừa kế là đúng như vậy không ạ? Có phải ko đủ chữ ký của tất cả các người con của ông thì bố em không được đứng tên phần đất đó không ạ?Nếu muốn làm sổ đỏ để sang tên đổi chủ thì bố em cần phải làm những thủ tục gì ạ?
1/ Nếu di sản là tài sản riêng của ông nội bạn thì trên cơ sở di chúc, bố bạn có quyền được hưởng di sản đó. Trong trường hợp này bố bạn đem hồ sơ khai nhận di sản thừa kế tại tổ chức công chứng rồi làm thủ tục sang tên sổ đỏ. 2/ Nếu di sản là tài sản chung của ông nội bạn với người khác thì trước hết phải xác định được phần di sản của ông trong khối tài sản chung đó, sau đó bố bạn làm thủ tục như trên. Phần di sản còn lại sau khi trừ di chúc (nếu có) sẽ được chia theo pháp luật. 3/ Trường hợp phát sinh tranh chấp do cho rằng di chúc không phát sinh hiệu lực thì có thể: Bố bạn nhận phần di sản trên cơ sở các đồng thừa kế khác đồng ý hoặc bố bạn phải chứng minh tính hiệu lực của di chúc (ví dụ giám định chữ ký) hoặc yêu cầu tòa án ra phán quyết về vấn đề này hay yêu cầu tòa án giải quyết về toàn bộ vấn đề thừa kế trong đó bao gồm cả di chúc
Ông bà nội tôi vừa mất, giờ ba tôi thừa kế, bây giờ sang tên thì ba tôi phải làm giấy tờ gì? Cơ quan nào giải quyết. Phí là bao nhiêu trên 1000m2 đất nông nghiệp thuộc xã bình chánh.
Trước hết cha bạn phải thực hiện việc khai nhận di sản thừa kế theo quy định chung của pháp luật. Sau đó mới thực hiện việc đăng ký chuyển tên trên giấy chứng nhận thực hiện tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp quận huyện nơi có thửa đất bạn nhé. Đối với trường hợp này cha bạn sẽ phải thanh toán lệ phí khai nhận di sản thừa kế, lệ phí trước bạ 0.5% giá trị quyền sử dụng đất, lệ phí cấp giấy mới, lệ phí thẩm định.
Bố tôi là cổ đông của một công ty cổ phần nhà nước, ngày ông mất không để lại di chúc, giờ đc sự thống nhất của cả gia đình là muốn để tôi thay ông làm cổ đông của công ty, bản thân tôi đang là nhân viên hợp đồng 68 của một trường học công lập. Tôi muốn hỏi, như vậy tôi có đc sang tên cổ phần từ bố tôi không, nếu không gia đình tôi sẽ sang tên cho em tôi ( đang là sinh viên năm 3 đại học) và nếu được thì cần làm những thủ tục gì.
Căn cứ nội dung bạn trình bày thì trước tiên để hợp pháp quyền thừa kế của bạn đối với cổ phần cha bạn thì bạn phải làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế tại cơ quan công chứng đối với số cổ phần trên. Sau khi hoàn thiện thủ tục thừa kế thì bạn liên hệ với công ty để hoàn tất thủ tục xác nhận hoặc cấp đổi giấy chứng nhận cổ đông, cổ phiếu theo quy định.
Doanh nghiệp em cần bán 1 căn nhà ( giá trị khoảng 1 tỷ ) cho 1 cá nhân. Nhà đã có sổ đỏ mang tên doanh nghiệp. các anh có thể tư vấn giúp doanh nghiệp cần chuẩn  bị những giấy tờ pháp lý nào nữa, và những bước thực hiện như thế nào ?Và thực hiện tại đâu ? Hiện giờ có văn bản pháp luật nào hướng dẫn chi tiết về các bước tiến hành sang tên đổi chủ.
Trước hết về quyền của người sử dụng đất, người sở hữu nhà theo quy định của Luật Đất đai và Luật nhà ở thì chủ sở hữu, chủ sử dụng được toàn quyền quản lý, định đoạt theo nhu cầu và mục đích của mình trong đó có việc chuyển nhượng cho cá nhân tổ chức khác. Tuy nhiên đối với doanh nghiệp thì về mặt thủ tục hồ sơ có phần phức tạp hơn vì đây là tài sản chung của doanh nghiệp nên việc chuyển nhượng cũng cần có ý kiến của tập thể thành viên sáng lập hoặc ý kiến của hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị theo quy định của doanh nghiệp. Trường hợp bạn chuyển nhượng cho doanh nghiệp khác thì cơ quan giải quyết hành chính là Sở tài nguyên và môi trường tỉnh thành phố trực thuộc trung ương nơi có ngôi nhà và thửa đất. Trường hợp người nhận chuyển nhượng là cá nhân thì có thể thực hiện thủ tục hành chính tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp quận huyện nơi có ngôi nhà và thửa đất.
Em có mua 1 căn nhà của 1 người tên A . và em đã thực hiện hết nghĩa vụ đống thuế với nhà nước và đã được sang tên quyền sử dụng đất . Nhưng sự việc xẩy ra . là e đến nhận nhà thì có 1 số người đang sinh sống tại đó nói là con của bà C. mà em được biết là ông A nầy mua nhà của bà C và Bà C cũng đã sang tên cho ông A . hai người con của bà C nầy đữa ra quyết định của toà an là bà C nầy chỉ được quyền trong giữ ngôi nhà đó cho đứa con khi đến 18t phải trao trả nhà cho đúa con . và giờ e phải làm sao đê lấy được tiền nhà em nên thưa ông A vì đã không làm theo hợp đồng với e hay là thưa bà C. và khi đưa ra toàn giải quyết thì em có được bồi thường những khoản nào . vì số tiền mua nhà e mượn của bạn bè và đống lãi với 5% mỏi tháng .. vậy e có được tính lãi xuất trên số tiền đã bỏ ra mua không?
Bạn kiện ông A về việc tranh chấp hợp đồng mua bán căn nhà vì nghĩa vụ giao nhà là một trong các quy định trong hợp đồng mà 2 bên đã ký kết. Trong đơn khởi kiện bạn đưa bà C, những người con bà C vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Việc yêu cầu bồi thường tiền lãi 5% như bạn trình bày khó được tòa chấp nhận. Nếu từ sau ngày thỏa thuận giao nhà mà ông A chưa giao nhà và bạn đi thuê nhà (có hợp đồng, hóa đơn) thì bạn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại thực tế này...
Hiện tại gia đình tôi đang sống trên một mảnh đất mang tên cô ruột tôi. Hiện gia đình tôi muốn sang tên để tiện trong những vấn đề về sau. Tuy nhiên hiện gia đình cô tôi lại đang ở Hiện tôi muốn sang tên theo hình thức cho tặng thì có đựoc không ? và thủ tục như thế nào nếu cô của tôi không về làm trực tiếp đựơc ? và chi phí như thế nào ?
Đất mang tên cô ruột đang ở nước ngoài thì muốn sang tên đất cho thành viên khác trong gia đình buộc cô ruột đứng t6en đất phải làm thủ tục hợp đồng tặng cho hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có công chứng, chứng thực theo quy định của luật pháp Việt Nam. Sau đó, người được tặng cho hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất tiến hành thủ tục sang tên trước bạ và đăng bộ quyền sử dụng đất theo quy định. Về thủ tục ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc tặng cho quyên sử dụng đất thì người đứng tên quyền sử dụng đất phải về Việt Nam tiến hành thủ tục.
Kính gởi các luật sư! Nhờ các LS tư vấn trương hợp của tôi như sau: Tháng 10-2013 tôi có mua 1 miếng đất ở quận 12 của 2 vợ chồng, người vợ đứng tên trong sổ. Sau khi ra công chứng số 4 kí hợp đồng giao dịch tôi đã giao đủ tiền. (cả 2 vợ chồng đều lăn tay, kí tên bán). Vì 1 số lí do hộ khẩu tôi chưa kịp sang tên ngay, đến tháng 1-2014 tôi nộp hồ sơ đăng bộ thì quận yêu cầu cập nhật bản đồ mới, sau khi đo đạc và cập nhật lại bản đồ tôi nộp lại hồ sơ đăng bộ thì nhận được công văn ngăn chặn mua bán, chuyển dịch ... Miếng đất của chi cục thi hành án với lí do: Người bán bị bên thứ 3 kiện do nợ nần tiền bạc (không rõ trước đây người bán có dùng tiền vay của bên thứ 3 để mua đất hay không) và tòa xử bên thứ 3 thắng kiện. Nay công văn ghi rõ để đảm bảo việc thi hành án nên tạm thời ngăn chặn việc mua bán, sang tên miếng đất. Chờ cho việc thi hành án có kết quả sẽ liên lạc để tôi nộp lại hồ sơ và giải quyết theo quy định. Vậy tôi xin hỏi các ls như sau: 1/ Tôi đã thực sự làm chủ miếng đất hay chưa? 2/ Việc tranh chấp và thi hành án của người bán và bên thứ 3 có liên quan gì đến tôi không? Tôi có bất lợi gì không? Nếu tòa đã xử xong mà không liên quan đến tôi, vậy sao còn ngăn chặn tôi sang tên? 3/ Miếng đất của tôi có còn được giải quyết sang tên hay không? 4/ Liệu miếng đất của tôi có nguy cơ bị kê biên, phát mãi gì không? Và tôi có nguy cơ mất tiền mua đất không? 5/ Bây giờ tôi phải làm gì tiếp theo? Kính mong các LS giải đáp giúp tôi.
Đây là sự mâu thuẫn trong luật và các văn bản thi hành án hiện hành. Tôi giải thích cho anh hiểu như sau: bên thứ 3 kiện bên bán, và đã có bản án, tuy nhiên bên bán cố tình bán và bán mua dù ngay tình nhưng vẫn sẽ bị ngăn chặn để đảm báo thi hánh án với lý do dơn giản là bên bán đã cố tình tẩu tán tài sản. Điều bất lợi do BĐS là thửa đất, anh chỉ là chủ sở hữu kkhi đứng tên, bản thân tôi đã tư vấn và gặp rất nhiều trường hợp thế nàynên nguy cơ thửa dất trên bị cơ quan thị hành án kê biên, đem bán để đảm bảo thì hành án cho bên bán là rất lớn. Anh nên yêu cầu bên bán cung cấp bán ản để xem ngày tháng năm nào án có hiệu lực, cũng như yêu cầu họ lo thanh toán tiền cho thi hành án.
Ông bà ngoại tôi có 10 người con.  Ông ngoại mất 3 năm nay không để lại di chúc. Bằng khoán 3000 m2 ( 300m2 thổ cư, 2700m2 đất trồng cây lâu năm) đất do ông ngoại đứng tên. Phần đất 3000m2 này được chia cho cậu 10. Những người con khác của ngoại và bà ngoại thống nhất như vậy (trong đó có mẹ tôi) . Bảo đảm là không có việc tranh chấp khi làm thủ tục thừa kế. (Chưa mở thừa kế theo quy định của pháp luật). Cậu tôi muốn chia cho tôi 100m2 đất trong phần 3000 m2 này. Nhưng không tách thửa được vì đất vướng dự án 1/2000, 1/500 ... Xin hỏi Luật sư có cách nào để dùng cách thừa kế để cắt 1 phần đất đó ra sang tên cho tôi hay không ? Tôi có nghĩ đến cách lúc mở thừa kế thì chia 2 phần cho mẹ tôi và cậu 10. Sau đó mẹ tôi sang tên cho tôi bằng hình thức cho tặng. Như vậy có được không ? Vì tôi thuộc hàng thừa kế thứ 2. Có cách nào để cùng lúc chia di sản thừa kế cho hàng thừa kế thứ 1 là cậu 10 và tôi là hàng thừa kế thứ 2 hay không. Trong 100 m2 tôi được cho thì nên tách ra bao nhiêu m2 thổ cư để khi dự án thu hồi đất thì cấp tái định cư cho tôi. Hiện nay tôi chưa có đất và nhà riêng.
Toàn bộ diện tích đất tuy do ông ngoại đứng tên nhưng là tài sản chung của ông bà ngoại. Nay ông Ngoại mất không để lại di chúc, bà ngoại còn sống nên chia theo quy định của pháp luật: 1/2 là tài sản của bà ngoại còn 1/2 là di sản thừa kế do ông ngoại để lại chia đều cho các đồng thừa kế của ông ngoại (là ngoại và các con của ông bà ngoại) mỗi người một phần bằng nhau. Khi gia đình thỏa thuận chia phần di sản của ông ngoại và khai nhận di sản thừa kế tại tổ chức công chứng thì có thể thỏa thuận cho cậu 10 được nhận phần đất thổ cư 300m2 như thỏa thuận trong gia đình. Sau khi khai nhận di sản thừa kế thì phần của ai được nhận sẽ làm thủ tục tách sổ để đứng tên riêng. Khi cậu 10 đã có sổ riêng của mình thì sẽ làm thủ tục tặng cho lại bạn 100m2 đất thổ cư như đã hứa với bạn.
Luật sư cho tôi hỏi. Ông nội tôi sinh được 8 người con 2 anh em trai và 6chị em gái. Bác trai trên bố tôi được ông bà mua cho riêng chỗ đất khác.trước bố mẹ tôi ở với ông bà. Lúc ông còn sống ông đã làm sổ đỏ đất đứng tên bố tôi. Sau 3 tháng sau thì ông tôi mất năm 1998. Bà còn sống lại ở với bác gái tôi, không ở nhà tôi nữa. Đất bố tôi đứng tên nhưng bà vẫn trồng cây ăn quả. Bà tôi lại mới mất cách đây 6 tháng. Lúc bà sống ngồi có tôi và bác gái bà ở cùng bà nói bà còn sống bà trồng cây, khi nào bà chết bà cho tôi. Giờ bà mất nhà tôi hỏi các cô các bác để sử dụng chỗ đất trên nhưng các cô các bác gái không đồng ý, muốn để đất đó lại trồng cây và có ý muốn kiện nhà tôi. Vây luật sư cho tôi hỏi nhà tôi có được sử dụng đất đó không và các bác các cô tôi kiện nhà tôi có bị ảnh hưởng gì không. Xin cho tôi được biết tôi xin chân thành cám ơn!
Như thông tin bạn nêu thì đất đó là của bố bạn và đã được nhà nước công nhận thông qua việc cấp sổ đỏ, cây cối bà bạn trồng không phải là bằng chứng về quyền sở hữu của bà đối với đất đã cho bố bạn. Những người khác có quyền kiện nếu họ thấy quyền lợi của họ bị vi phạm và họ có cơ sở để kiện. Dĩ nhiên, khi bị người khác kiện thì bên bị kiện sẽ mất thời gian, công sức và có thể cả chi phí nữa để chứng minh quyền lợi của mìnhlà đúng pháp luật và phản bác yêu cầu của đối phương. Tuy nhiên, nếu họ tranh chấp về tài sản trên đất của bà bạn thì ít nhiều họ có cơ sở.
Chào luật sư, cho em hỏi em có đất ở Phú Quốc bây giờ em muốn sang tên, cần những giấy tờ gì, cách thức làm như thế nào và làm ở đâu, đóng thuế bao nhiêu %, đất đó là đất nông nghiệp bây giờ em muốn chuyển thành đất thổ cư được không? Xin cảm ơn!
Bạn muốn sang tên đất tức là chuyển quyền sử dụng đất thì đầu tiên đất phải là đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng hợp pháp. Sau đó, giữa hai bên chuyển quyền sử dụng và nhận chuyển quyền sử dụng tiến hành công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại tổ tức công chứng. Tiếp theo là tiến hành thủ tục sang tên, nộp lệ phí trước bạ và đăng bộ quyền sử dụng đất để cập nhật sang tên cho bạn. Về thuế và các loại phí thì bên chuyển nhượng nộp thuế TNCN cho việc chuyển nhượng đất. B6en nhận chuyển nhượng nộp lệ phí trước bạn. Lệ phí công chứng do hai bên cùng chịu hoặc thỏa thuận một bên chịu. Muốn chuyển đất từ nông nghiệp thành đất thổ cư thỉ phải xin chuyển mục đích sử dụng đất. Tùy thuộc vào tình trạng sử dụng đất, quy hoạch tại địa phương và cơ quan chức năng sẽ xem xét giải quyết. Thủ tục này liên hệ và tiến hành tại phòng tài nguyên môi trường nơi có đất tọa lạc.
Chào luật sư! Bố em có mua một miếng đất nhà cô ruột của bố đã giao tiền đầy đủ nhưng sổ đỏ vẫn chưa sang tên,cuốn sổ vẫn để trong nhà em. Hôm trước con của người cô ruột đó hỏi mượn lại ba em cuốn sổ đó rồi đem đi cầm luôn. Hỏi giờ nhà em phải làm như thế nào để lấy lại sổ đất? Việc sổ đỏ chưa sang tên khi kiện cáo sẽ bất lợi như thế nào với nhà em. Mong các luật sư giải đáp dùm. Em xin cảm ơn!
​1. Vụ việc của gia đình bạn là quan hệ dân sự, nếu có tranh chấp thì được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Trong quan hệ dân sự cũng có thể có gian dối. Hành vi gian dối trong quan hệ dân sự làm có thể làm cho giao dịch đó vô hiệu. Nếu cố tình không thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng gây thiệt hại thì phải bồi thường, nếu không thực hiện hợp đồng khiến hợp đồng vô hiệu thì phải bồi thường thiệt hại. Hành vi không thực hiện thủ tục đăng ký sang tên là vi phạm hợp đồng dân sự, dẫn đến tranh chấp hợp đồng thì tòa án sẽ giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Còn trong quan hệ dân sự mà gian dối đến mức nguy hiểm cho xã hội, thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản thì mới thành tội phạm. Nếu gia đình đó nhận tiền của gia đình bạn nhưng không bàn giao đất cho gia đình bạn để sử dụng, không đăng ký sang tên, đồng thời lại gian dối để lấy lại sổ đỏ mang đi cầm cố thì mới có dấu hiệu tội phạm. 2. Bạn có thể khởi kiện tới tòa án để buộc gia đình đó phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để đăng ký, sang tên cho gia đình bạn.
Pháp luật quy định thế nào về sở hữu chung trong nhà chung cư?
Trong nhà chung cư, sở hữu chung được xác định như sau: 1. Phần diện tích, trang thiết bị dùng chung trong nhà chung cư thuộc sở hữu chung của tất cả chủ sở hữu các căn hộ trong nhà đó và không thể phân chia, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc có sự thoả thuận của tất cả các chủ sở hữu. 2. Chủ sở hữu các căn hộ trong nhà chung cư có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lý, sử dụng phần diện tích và thiết bị chung. 3. Trong trường hợp nhà chung cư bị tiêu huỷ thì chủ sở hữu các căn hộ trong nhà chung cư có quyền sử dụng diện tích mặt đất của nhà chung cư theo quy định của pháp luật. (Điều 225 Bộ luật dân sự 2005) Nguồn: Công ty Luật Vinabiz/ Nguoiduatin.vn
Kính gửi luật sư câu hỏi;  Tôi sinh sống và làm việc tại hà nội, dịp vào TP HCM qua quen biết dắt dây ,1 tư vấn cty An cư lạc nghiệp tư vấn về 1 lô đất 150m dự án ỊJC2 bình dương trong khi tôi đang được ủy quyền giữ 1 khoản tiền trong thời gian ngắn,còn thu nhập không đủ cho giao dịch BĐS này,nên không thể tham gia ,nhưng do sự mồi chài Tư vấn nên tôi đã đồng ý đặt cọc 50 triệu,trong 2 tuần,tiếp sau đó ,người TV này lại mồi chài tôi ký giấy mua ,chuyển 190 triệu tiếp để tham gia HĐ này giai đoạn 1 hứa là sẽ có thời gian dài hơn tháng để chuyển nhượng lại cho người khác,để không bị mất 50 triệu ,Tôi đã tưởng thật nên nhờ người nhà vay lãi hộ khoản tiền này  chuyển khoản vào cty họ ,và cũng thông báo cho tư vấn này .cô tư vấn hẹn tôi lên cty ,Hợp đồng cô lễ tân đua cho tôi khoảng 5,10 phút tôi  đọc và không hiểu hết và  ký khi không có mặt bên A (tư vấn )mà do cô lễ tân đưa cho Tôi ,tôi đã ký qua loa vào trang4 ,những trang còn lại thì tư vấn này ký và sau đó gửi cho tôi ,cô này cũng yêu cầu tôi ký vào ủy quyền bán lại , Sau đó Tôi đã gọi điện nhắc nhở người tư vấn này về lời hứa của họ nhưng người này đã lật lọng tuyên bố không có trách nhiệm gì Và đến bây giờ 11 tháng sau cty này yêu cầu chấm dứt hợp đồng ,và sẽ trừ các khoản vi phạm hợp đồng ,Còn Tôi bị bên cho vay thúc ép trả khoản tiền nợ gốc và lãi ,và sẽ bị trả giá,, ,đưa ra tòa án ... Tôi đã cố gắng lần lữa thoái thác vì không có tiền trả , Vậy Tôi có thể đòi lại khoản tiền trên 240 triệu và lãi xuất để có thể trả nợ được không ?  Xin Luật Sư chỉ giùm !
Trường hợp này bạn còn nắm giữ những tài liệu nào liên quan đến vụ việc bạn nên cung cấp Luật sư mới tư vấn giúp bạn được. Với số tiền 240 triệu bạn đã nộp nếu có cơ sở chứng minh được lỗi của bên bán bạn mới có quyền yêu cầu họ trả lại toàn bộ số tiền cùng với lãi suất trong thời gian vừa qua. Về số tiền bạn vay của người khác để thực hiện hợp đồng là mối quan hệ khác bạn vẫn phải có nghĩa vụ trả lại người cho vay.
Hiện tại gia đình em đang có nhu cầu mua đất, trong quá trình làm việc với chủ đất thì em được chủ đất cho xem trích lục của phần đất (bao gồm cả các khuôn đất xung quanh và đánh số) và sổ đỏ photo. Tuy nhiên khi xem trên sổ đỏ và trích lục thì em thấy có sự khác nhau về diện tích chiều dài. Ví dụ: 1 chiều dài trên sổ đỏ là 3.19, còn chiều dài đó trên trích lục là 3.20 còn lại các thông số khác không có gì thay đổi. Ngoài ra có sự khác nhau giữa số được đánh trên sổ đỏ và trích lục. Như vậy khuôn đất như này có nên tiếp tục giao dịch hay làm việc hay không và nếu em mua khuôn đất này thì sau này liệu có tranh chấp gì xảy ra với ủy ban nhân dân xã, huyện không.
Thông thường, khi so sánh các bản đồ đo đạc cùng một vị trí hay có sai biệt nhỏ do người đo, cách làm tròn số v.v....tuy nhiên nếu sai số thấp ( khoảng vài cm) thì không có vấn đề gì. Riêng số thửa có thể tương ứng với từng thời điểm và được cơ quan đo đạc cập nhật, điều chỉnh. Muốn đảm bảo các thông tin về thửa đất là chính xác, bạn có thể liên hệ Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất tại địa phương để xin cung cấp thông tin địa chính của thửa đất. Chúc bạn thành công. Thân ái !!!
Cho em xin hỏi? Công ty em đang nợ tiền với bên bán với số tiền 500 triệu đồng. Hiện nay bên công ty đang bị bên bán khởi kiện ra tòa án kinh tế. Biết chắc công ty em sẽ thua kiện vì số tiền này có nợ và giờ không có khả năng trả nợ. Vậy khi xét xử bên em sẽ bị như thế nào? Nhờ tư vấn pháp lật giải đáp hộ?
Trước hết, chuyên mục cảm ơn bạn đã gửi thắc mắc cho chúng tôi, trường hợp của bạn theo quy định của pháp luật sẽ xử lý như sau: Trường hợp người đi vay vẫn muốn thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình nhưng do hoàn cảnh khách quan hoặc chủ quan mà họ không thể trả nợ được thì chỉ là quan hệ dân sự thông thường.Khi Tòa án xét xử sẽ tuyên bố nghĩa vụ trả nợ của Công ty bạn cũng như khoản tiền lãi suất theo yêu cầu của bên chủ nợ. Trong trường hợp này, khi Công ty bạn không còn tài sản để trả nợ thì nghĩa vụ trả nợ sẽ được tạm hoãn và có tính lãi, khi Công ty bạn phát sinh tài sản thì bên chủ nợ có thể yêu cầu bên thi hành án dân sự tiến hành cưỡng chế tài sản để thi hành thanh toán khoản nợ và lãi suất Nếu Công ty bạn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, có hành vi trốn tránh nghĩa vụ trả nợ được biểu hiện bằng các hành vi cụ thể như bỏ trốn nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, tẩu tán tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả nợ... thì có thể bị truy tố tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nguồn: Công ty Luật Cương Lĩnh/Nguoiduatin
Điều kiện xin nhận con nuôi có yếu tô nước ngoài?
Trường hợp bạn hỏi về điều kiện xin nhận con nuôi này thuộc trường hợp xin nhận con nuôi đích danh. Khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngòai thường trú ở nước ngoài chỉ được phép xin nhận con nuôi đích danh trong các trường hợp sau: “2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài được nhận con nuôi đích danh trong các trường hợp sau đây: a) Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi; b) Là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi; c) Có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi; d) Nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi; đ) Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất là 01 năm. 3. Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi. 4. Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam.” Theo như bạn trình bày, bạn định cho con của cô ruột nhận con bạn làm con nuôi, tức là chú họ nhận cháu làm con nuôi. Trường hợp này không đáp ứng điều kiện tại điểm b Khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi 2010: Là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi. Do đó, người chú họ đang định cư ở Mỹ muốn nhận đích danh trẻ em làm con nuôi phải đáp ứng điểm đ, khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi 2010: Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất là 01 năm. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 29 về điều kiện đối với người nhận con nuôi em họ của bạn phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người em họ của bạn thường trú và quy định tại Điều 14 của Luật Nuôi con nuôi 2010 về điều kiện đối với người nhận con nuôi. “Điều 14. Điều kiện đối với người nhận con nuôi 1. Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; d) Có tư cách đạo đức tốt. 2. Những người sau đây không được nhận con nuôi: a) Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; b) Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; c) Đang chấp hành hình phạt tù; d) Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. 3. Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này.” Nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện trên, mời bạn liên hệ với Sở Tư pháp trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố thuộc tỉnh nơi thường trú của trẻ em để làm thủ tục xin nhận con nuôi tại Việt Nam.
Thế nào là nuôi con nuôi thực tế?
Chào bạn, Vấn đề bạn hỏi, Công ty Luật Tiền Phong xin được tư vấn cho bạn như sau: 1. Việc nhận con nuôi phải đăng ký theo quy định của pháp luật: Luật Nuôi con nuôi 2010 và Nghị định 19/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định về đăng ký việc nuôi con nuôi như sau: Việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế giữa công dân Việt Nam với nhau mà chưa đăng ký trước ngày 01 tháng 01 năm 2011 (được coi là nuôi con nuôi thực tế) thì được đăng ký kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2015 tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi, nếu đáp ứng các điều kiện sau: 1.1 Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, 1.2 Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên, 1.3 Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi, 1.4 Có tư cách đạo đức tốt, không thuộc trường hợp không được nhận con nuôi. 1.5 Quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống; 1.6 Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con. Quy định trên cũng được áp dụng đối với trường hợp công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới nhận trẻ em của nước láng giềng cư trú ở khu vực biên giới của nước láng giềng làm con nuôi trước ngày 01 tháng 01 năm 2011 mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sau khi được đăng ký, quan hệ nuôi con nuôi mới có giá trị pháp lý kể từ thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi. Trong thời hạn từ 01/01/2011 đến ngày 31/12/2015 bạn cần tiến hành thủ tục đăng kí con nuôi thực tế theo quy định tại điểm 2 dưới đây để hợp thức hóa quan hệ con nuôi giữa bạn và cháu. 2. Thủ tục đăng kí con nuôi thực tế Nghị định 19/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định về hồ sơ và thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi thực tế như sau: 2.1 Về hồ sơ: - Tờ khai đăng ký nuôi con nuôi thực tế: Bạn phải làm Tờ khai đăng ký nuôi con nuôi thực tế và nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi người đó thường trú. Trong Tờ khai cần ghi rõ ngày, tháng, năm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi trên thực tế, có chữ ký của ít nhất hai người làm chứng. - Kèm theo Tờ khai phải có các giấy tờ sau đây: (i) Bản sao Giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của bạn; (ii) Bản sao Giấy chứng minh nhân dân hoặc Giấy khai sinh của con nuôi; (iii) Bản sao Giấy chứng nhận kết hôn của bạn ( nếu có); (iv) Giấy tờ, tài liệu khác để chứng minh về việc nuôi con nuôi (nếu có). 2.1 Thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi thực tế: - Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã cử công chức tư pháp – hộ tịch phối hợp Công an xã tiến hành kiểm tra và xác minh; nếu cả người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi đều còn sống, quan hệ cha mẹ và con giữa các bên vẫn đang tồn tại, các bên có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau trên thực tế như cha mẹ và con, thì Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký việc nuôi con nuôi. - Khi đăng ký việc nuôi con nuôi, cả người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi đều phải có mặt. Công chức tư pháp – hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký nuôi con nuôi và trao Giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho các bên. 2.1 Về lệ phí đăng ký nuôi con nuôi: Đăng ký nuôi con nuôi thực tế thuộc trường hợp được miễn lệ phí đăng ký nuôi con nuôi (Điều 43, Nghị định 19/2011/NĐ-CP). Trên đây là các ý kiến tư vấn của luật sư, hi vọng làm sáng tỏ các vấn đề mà bạn đang quan tâm. Nếu bạn còn băn khoăn hoặc cần tư vấn thêm, vui lòng điện thoại về tổng đài tư vấn pháp luật của Luật Tiền Phong số 04-1088/4/3hoặc liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ sau để được trợ giúp:
Cháu có một người bạn, bạn cháu được cô tên Minh Thư (cô này có hai căn nhà và một số tài sản khác, thêm nữa lúc bà mất thì công an đến niêm phong tài sản của bà) làm con nuôi nhưng không có giấy khai sinh, cũng không hề nằm trong hộ khẩu (trong khi đó bà có một đứa con nuôi  nằm trong hộ khẩu nhưng đang học tập cải tạo ở trung tâm cai nghiện không về được, một người cậu cũng nằm trong hộ khẩu và một người con ruột đã đi nước ngoài nhưng không nằm trong hộ khẩu, mà trong khi đó trước khi bà qua đời bà có LÀM HỢP ĐỒNG CHO TẶNG  bạn cháu  một căn nhà tại PHÒNG CÔNG CHỨNG. Vậy luật sư vui lòng cho cháu hỏi lúc bà mất không hề viết di chúc gì hết, vậy HỢP ĐỒNG CHO TẶNG của bạn cháu có hiệu lực không? Và khi bà mất bạn cháu có quyền quản lý căn nhà đó không, mặc dù bạn cháu chưa chuyển quyền sử dụng nhà ở và đất ở? Hay bạn cháu phải chờ người thân trong hộ khẩu về đông đủ mở tài sản niêm phong rùi thì bạn cháu mới được tiếp quản căn nhà được cho tặng?
Chào bạn, Trường hợp như bạn nêu thì vấn đề hộ khẩu không liên quan gì đến quyền sở hữu tài sản. Hợp đồng cho tặng đã được công chứng phù hợp với quy định của pháp luật thì có hiệu lực nên bạn của bạn có quyền thực hiện các thủ tục để sang tên, trừ trường hợp có quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền. Nhà do công an niêm phong thì phải có sự đồng ý của họ trước khi mở niêm phong. Trân trọng!
Vợ chồng tôi bị hiếm muộn. Chúng tôi đã kết hôn gần 5 năm rồi nhưng vẫn chưa có con. Tôi có chị họ làm mẹ đơn thân, gia cảnh cũng khó khăn nên vợ chồng tôi quyết định định nhận cháu trai hiện nay được 2 tuổi, gọi tôi bằng dì ruột làm con nuôi. Tôi muốn hỏi điều kiện như thế nào để có thể nhận cháu tôi làm con nuôi?
Chị là dì ruột với trẻ được nhận nuôi nên chị được xin nhận đích danh cháu bé này. Cháu bé hiện mới 2 tuổi nên đủ điều kiện được nhận làm con nuôi theo khoản 1 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi. Bên cạnh đó, vợ chồng chị phải đáp ứng điều kiện theo Điều 14 Luật Nuôi con nuôi “1. Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; d) Có tư cách đạo đức tốt. 2. Những người sau đây không được nhận con nuôi: a) Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; b) Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; c) Đang chấp hành hình phạt tù; d) Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. 3. Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này.” Như vậy, nếu vợ chồng chị đáp ứng điều kiện trên và được sự đồng ý của mẹ ruột cháu bé theo Điều 21 LNCN thì vợ chồng chị có thể tiến hành thủ tục nhận con nuôi tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cháu bé thường trú hoặc nơi vợ chồng chị thường trú. Thời hạn giải quyết việc nuôi con nuôi là 30 ngày, kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp xã nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Sau hai năm nhận tôi làm con nuôi, mẹ nuôi tôi kết hôn và sinh được 2 người con. Nhưng hiện nay bây giờ bố mẹ nuôi đang ốm nặng không giao tiếp và không thể cử động được do tai nạn giao thông. Vậy khi bố mẹ nuôi mất thì vấn đề thừa kế sẽ như thế nào?
Căn cứ theo Điều 675 Bộ luật Dân sự, đối với trường hợp người để lại di sản thừa kế mất mà không để lại di chúc, vấn đề chia di sản cho những người thừa kế sẽ được thực hiện dựa vào quy định của pháp luật. Căn cứ vào Điều 676, những người thừa kế thuộc hàng thứ nhất gồm có: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Dựa vào nguyên tắc không phân biệt đối xử trong quan hệ hôn nhân và gia đình, luật pháp quy định những người thừa kế cùng hàng thừa kế được hưởng phần di sản bằng nhau mà không phân biệt là con đẻ, con nuôi. Do đó, kể cả khi chỉ là con nuôi, bạn vẫn có quyền hưởng phần di sản thừa kế do bố mẹ nuôi để lại ngang với các con đẻ của bố mẹ nuôi. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chỉ được xác lập khi: - Tại thời điểm nhận nuôi con nuôi, việc nuôi con nuôi được đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của cha mẹ nuôi hay con nuôi; - Trường hợp việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế nhưng chưa đăng ký trước ngày 1/1/2011, nếu đáp ứng những điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật nuôi con nuôi thì được đăng ký kể từ ngày 1/1/2011 tới hết ngày 31/12/2015 tại ỦY ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi (căn cứ vào khoản 1 Điều 23 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi). Theo khoản 1 Điều 50 quy định điều kiện gồm có: a) Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi căn cứ theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh mối quan hệ nuôi con nuôi; b) Đến thời điểm Luật này có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả 2 bên còn sống; c) Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục nhau như cha mẹ với con. Như vậy, trường hợp việc nuôi con nuôi giữa bạn và bố mẹ nuôi của bạn đã được đăng ký theo quy định trên thì quan hệ nuôi con nuôi được xác lập. Do vậy bạn có quyền hưởng phần di sản thừa kế do bố mẹ nuôi bạn để lại và ngược lại. Bạn cũng cần chú ý rằng, ngay cả trong trường hợp mẹ nuôi đã hoàn tất thủ tục đăng ký nuôi con nuôi trước khi kết hôn, tuy nhiên sau khi kết hôn chồng của mẹ nuôi bạn (tức là bố nuôi) không làm thủ tục đăng ký nuôi con nuôi với bạn thì mỗi quan hệ con nuôi giữa bạn và bố nuôi không được xác lập. Hay nói cách khác, thì việc kết hôn của mẹ nuôi không nghiễm nhiên làm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi giữa bạn và chồng của mẹ nuôi bạn. Do đó, khi bố mẹ nuôi bạn mất đi mà không để lại di chúc, bạn chỉ có quyền hưởng phần di sản thừa kế do mẹ nuôi để lại mà bạn không được quyền hưởng phần di sản thừa kế của bố nuôi.
Vợ chồng tôi cưới nhau đã 7 năm nay nhưng vẫn chưa có con. Vừa qua có người giới thiệu cho chúng tôi xin nhận một cháu làm con nuôi. Xin luật gia hướng dẫn các thủ tục?
Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi và Nghị định 19/2011 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Nuôi con nuôi thì hồ sơ như sau: + Hồ sơ của người nhận nuôi con nuôi gồm 6 loại giấy tờ sau: 1. Đơn xin nhận con nuôi theo mẫu quy định (bản chính). 2. Hộ chiếu/Chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ có giá trị thay thế (bản sao). 3. Phiếu lý lịch tư pháp (bản chính, được cấp chưa quá 6 tháng). 4. Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân (bản sao nếu là giấy chứng nhận kết hôn hoặc bản gốc nếu là giấy xác nhận tình trạng độc thân). 5. Giấy khám sức khỏe do cơ sở y tế cấp huyện trở lên cấp (bản chính, được cấp chưa quá 6 tháng). 6. Văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế do UBND cấp xã, phường nơi người nhận con nuôi thường trú cấp (trường hợp cha dượng, mẹ kế hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi thì không cần văn bản này, bản chính, được cấp chưa quá 6 tháng). + Hồ sơ của người được nhận làm con nuôi gồm 5 loại giấy tờ sau: 1. Giấy khai sinh. 2. Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp. 3. Hai ảnh toàn thân, nhìn thẳng chụp không quá 6 tháng. 4. Biên bản xác nhận do UBND hoặc công an cấp xã nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi lập đối với trẻ em bị bỏ rơi; giấy chứng tử của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc quyết định của tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của trẻ em là đã chết đối với trẻ em mồ côi; quyết định của tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất tích đối với người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ đẻ mất tích; quyết định của tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất năng lực hành vi dân sự đối với người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ để mất năng lực hành vi dân sự. 5. Quyết định tiếp nhận đối với trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng. Từ quy định nêu trên thì người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi đều phải nộp một bộ hồ sơ như đã nêu trên tại UBND xã nơi cư trú của bạn hoặc nơi cháu bé được nhận làm con nuôi
Khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc có được trợ cấp không?
Lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận nuôi con nuôi dưới bốn tháng tuổi thì được trợ cấp một lần bằng hai tháng lương tối thiểu chung cho mỗi con. Trường chỉ có cha chăm con tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ chết thì cha được trợ cấp một lần bằng hai tháng lương tối thiểu chung cho mỗi con.
Ông Ninh Thế Anh hỏi: Anh ruột tôi là bệnh binh, bị tâm thần phân liệt, đã ly dị vợ, có 1 con trai. Nếu anh tôi nhận con nuôi, thì người con nuôi có được hưởng chế độ ưu đãi giáo dục như con đẻ không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17/6/2010 thì kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con… theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Như vậy con nuôi của người có công với cách mạng cũng được hưởng các chế độ ưu đãi theo quy định của pháp luật Ưu đãi người có công với cách mạng. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi thì người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: - Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; - Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; - Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; - Có tư cách đạo đức tốt. Đồng thời, khoản 5 Điều 13 Luật Nuôi con nuôi cũng quy định cấm lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước.
Vợ chồng tôi đã nhận một trẻ em bị bỏ rơi trước nhà làm con nuôi từ năm 2006 những đến nay chưa làm thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi. Bây giờ vợ chồng tôi phải làm thủ tục gì để đảm bảo quyền lợi cho cháu, để làm các giấy tờ cho cháu đi học?
Điều 50 Luật nuôi con nuôi năm 2010 có quy định về việc nhận nuôi con nuôi nhưng chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền như sau: 1. Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được đăng ký trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện sau đây: a) Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi; b) Đến thời điểm Luật này có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống; c) Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con. 2. Sau khi được đăng ký, quan hệ nuôi con nuôi quy định tại khoản 1 Điều này có giá trị pháp lý kể từ thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi. 3. Chính phủ quy định chi tiết thủ tục đăng ký nuôi con nuôi quy định tại Điều này, bảo đảm thuận lợi và phù hợp với điều kiện thực tế của nhân dân ở các vùng, miền. Điều 23 Nghị định 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi có quy định về đăng ký việc nuôi con nuôi thực tế : “ 1. Việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế giữa công dân Việt Nam với nhau mà chưa đăng ký trước ngày 01 tháng 01 năm 2011, nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Nuôi con nuôi, thì được đăng ký kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2015 tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi. 2. Quy định tại khoản 1 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới nhận trẻ em của nước láng giềng cư trú ở khu vực biên giới của nước láng giềng làm con nuôi trước ngày 01 tháng 01 năm 2011 mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.” Theo các quy định nói trên, nếu bạn “đủ điều kiện về nuôi con nuôi” như: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; có tư cách đạo đức tốt và trẻ em được nhận làm con nuôi dưới 16 tuôi, và đáp ứng được các điều kiện khác như đến nay quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống; giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con thì được làm thủ tục đăng ký kể từ ngày 01/01/2011 đến hết ngày 31/12/ 2015. Nơi làm thủ tục là Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú.
Chú tôi nhận một trẻ mồ côi làm con nuôi đã hơn 3 năm, nhưng chưa làm thủ tục đăng ký với cơ quan nhà nước. Nay bác tôi muốn đăng ký việc nuôi con nuôi có được không, thủ tục như thế nào.
1. Như thông tin anh (chị) cung cấp, trường hợp của chú anh (chị) được coi là nuôi con nuôi trong thực tế nhưng chưa đăng ký. Để đăng ký việc nuôi con nuôi, trước hết người được nhận làm con nuôi và người nhận nuôi con nuôi phải đáp ứng các điều kiện được quy định tại Điều 8, Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010, như sau: - Đối với người được nhận làm con nuôi phải là: a- Trẻ em dưới 16 tuổi; b- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi; hoặc được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng. - Điều kiện đối với người nhận con nuôi: a- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; b- Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; c- Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; d- Có tư cách đạo đức tốt. Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng điều kiện 2 và 3 nêu trên. Pháp luật không cho phép những người sau đây được nhận con nuôi: a- Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; b- Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; c- Đang chấp hành hình phạt tù; d- Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. 2. Thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi thực tế được quy định tại Điều 50 Luật Nuôi con nuôi và được hướng dẫn chi tiết tại 19/2011/NĐ-CP (ngày 21/03/2011quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi), thì việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế giữa công dân Việt Nam với nhau mà chưa đăng ký trước ngày 01/01/2011, nếu đáp ứng các điều kiện như đã nêu ở trên, thì được đăng ký kể từ ngày 01/01/2011 đến hết ngày 31/12/2015 tại UBND cấp xã, nơi thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi. Người nhận con nuôi phải làm Tờ khai đăng ký nuôi con nuôi thực tế và nộp cho UBND cấp xã, nơi người đó thường trú. Trong Tờ khai cần ghi rõ ngày, tháng, năm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi trên thực tế, có chữ ký của ít nhất hai người làm chứng. Kèm theo Tờ khai phải có các giấy tờ: a- Bản sao Giấy CMND và sổ hộ khẩu của người nhận con nuôi; b- Bản sao Giấy CMND hoặc Giấy khai sinh của người được nhận làm con nuôi; c- Bản sao Giấy chứng nhận kết hôn của người nhận con nuôi, nếu có; d- Giấy tờ, tài liệu khác để chứng minh về việc nuôi con nuôi, nếu có. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, UBND cấp xã cử công chức tư pháp - hộ tịch phối hợp Công an xã tiến hành kiểm tra và xác minh; nếu cả người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi đều còn sống, quan hệ cha mẹ và con giữa các bên vẫn đang tồn tại, các bên có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau trên thực tế như cha mẹ và con, thì UBND cấp xã đăng ký việc nuôi con nuôi. Khi đăng ký việc nuôi con nuôi, cả người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi đều phải có mặt. Công chức tư pháp - hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký nuôi con nuôi và trao Giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho các bên.
Tôi được cô ruột và dượng (không có con) nhận nuôi từ năm 1981, lúc đó tôi 12 tuổi. Tôi chuyển hộ khẩu về sống chung với ba mẹ nuôi từ đó cho đến nay, nhưng chưa làm thủ tục con nuôi theo quy định. Vừa qua, gia đình tôi đã làm đơn xin Chứng nhận nuôi con nuôi thực tế tại UBND phường, nhưng được thông báo hồ sơ của tôi không được chấp nhận vì tôi quá 16 tuổi. Đề nghị chuyên mục tư vấn, việc đăng ký nuôi con nuôi thực tế của gia đình tôi có thể thực hiện được không?.
Theo quy định tại Điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010, thì: Người được nhận làm con nuôi là: 1- Trẻ em dưới 16 tuổi; 2- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi hoặc được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng. Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi. Căn cứ các quy định trên, tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi, anh (chị) có đủ điều kiện được nhận làm con nuôi. Tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi quy định, người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; Có tư cách đạo đức tốt. Những người không được nhận con nuôi: Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; Đang chấp hành hình phạt tù; Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định về điều kiện: hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. Do anh (chị) chưa nêu rõ trong thư, chúng tôi giả thiết cha mẹ nuôi của anh (chị) đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên. Như vậy, việc đăng ký nuôi con nuôi của gia đình anh (chị) có thể thực hiện theo quy định tại Điều 50 Luật nuôi con nuôi: Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trước ngày Luật nuôi con nuôi có hiệu lực (01.01.2011) mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được đăng ký trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật nuôi con nuôi có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện: Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi; Đến thời điểm Luật này có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống; Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con (khoản 1). Sau khi được đăng ký, quan hệ nuôi con nuôi nêu trên có giá trị pháp lý kể từ thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi (khoản 2).
Kính gởi: BHXH Đà Nẵng Xin nhờ trợ giúp tình huống sau: Tháng 5/2013 tôi có nhận con nuôi và đã được nhận trợ cấp từ ngày nhận đến khi con đủ 4 tháng tuổi (tháng 7/13). Đến tháng 8/13 tôi có tham gia BHXH và xin nghỉ việc vào cuối tháng. Tháng 11/2013 tôi bắt đầu tham gia BHXH tại Công ty mới. Nay được biết BHXH quyết định chi trả bổ sung 2 tháng cho trường hợp nhận nuôi con nuôi. Công ty trước đây hiện tạm đóng cửa và sắp phá sản. Xin được hỏi nếu tôi muốn được hưởng chế độ này thì phải cần làm những thủ tục nào. Xin cảm ơn sự hỗ trợ của Quý cơ quan.
[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 Bạn nhận con nuôi vào tháng 5/2013 và đã nhận trợ cấp từ ngày nhận con nuôi đến khi con đủ 4 tháng tuổi (tháng 7/2013). Tháng 8/2013, Bạn có tham gia bảo hiểm xã hội và cuối tháng 8/2013 Bạn xin nghỉ việc sau đó đi làm tại công ty mới vào tháng 11/2013. Theo hướng dẫn tại Công văn số 2017/BHXH-CSXH ngày 09/6/2014, Bạn không được cấp thêm 2 tháng trợ cấp thai sản./.
Vợ chồng tôi có nhặt được một đứa trẻ bị bỏ rơi, nay vợ chồng tôi muốn nhận cháu làm con nuôi thì phải có những điều kiện nào? Thủ tục hồ sơ ra sao?
Đối với trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, sau khi ông bà phát hiện đứa trẻ bị bỏ rơi thì ông bà cần phải thông báo ngay cho UBND cấp xã hoặc Công an cấp xã nơi trẻ em bị bỏ rơi để tiến hành làm các thủ tục liên quan và sau đó làm thủ tục khai sinh theo quy định của Luật Hộ tịch năm 2014, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch để đảm bảo quyền lợi cho đứa trẻ. Trong trường hợp, ông bà có mong muốn nhận đứa trẻ làm con nuôi thì cần phải biết các thông tin sau: Thứ nhất, về điều kiện của người nhận nuôi con nuôi (Điều 14 Luật Nuôi con nuôi năm 2010) 1. Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; có tư cách đạo đức tốt; có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. 2. Những người sau đây không được nhận con nuôi: - Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; - Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; - Đang chấp hành hình phạt tù; - Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. 3. Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của cồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không cần phải có điều kiện “hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên” và “có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chổ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi”. Thứ hai, về hồ sơ của người nhận con nuôi và con nuôi (Điều 17, 18 Luật Nuôi con nuôi năm 2010) 1. Hồ sơ của người nhận con nuôi gồm có: - Đơn xin nhận con nuôi; Phiếu lý lịch tư pháp; bản sao Hộ chiếu, Giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ có giá trị thay thế; văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân; giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế do UBND cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 14 của Luật Nuôi con nuôi. 2. Hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi trong nước gồm có: - Giấy khai sinh; Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; - Hai ảnh toàn thân, nhìn thẳng chụp không quá 06 tháng; Biên bản xác nhận do UBND hoặc Công an cấp xã nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi lập đối với trẻ em bị bỏ rơi. Thứ ba, về cơ quan có thẩm quyền giải quyết, thời hạn giải quyết (Điều 19 Luật Nuôi con nuôi) - Người nhận con nuôi phải nộp hồ sơ của mình và hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi tại UBND cấp xã nơi người được giới thiệu làm con nuôi thường trú hoặc nơi người nhận con nuôi thường trú. - Thời hạn giải quyết việc nuôi con nuôi là 30 ngày, kể từ ngày UBND cấp xã nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Thứ tư, người nhận nuôi con nuôi phải nộp lệ phí đăng ký nuôi con nuôi (khoản 1 Điều 40, 43 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi) : Lệ phí đăng ký nuôi con nuôi trong nước là bốn tăm nghìn đồng (400.000 đồng)/trường hợp. Ngoài ra, có một số đối tượng được miễn, giảm lệ phí đăng ký nuôi con nuôi, cụ thể - Miễn lệ phí đăng ký nuôi con nuôi trong nước đối với trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi; nhận trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo được nhận đích danh làm con nuôi và việc nuôi con nuôi ở vùng sâu, vùng xa. - Miễn lệ phí đăng ký nuôi con nuôi đối với trường hợp đăng ký nuôi con nuôi thực tế, đăng ký lại việc nuôi con nuôi, công nhận và ghi chú việc nuôi con nuôi đã đăng ký ở nước ngoài. Trên đây là quy định của pháp luật về điều kiện và thủ tục để đăng ký nuôi con nuôi trong nước, ông bà nghiên cứu để thực hiện.
Nhà sư trụ trì một chùa tại xã T, huyện Phú Xuyên đến UBND xã xin đăng ký nhận một cháu bộ bị bỏ rơi tại chùa làm con nuôi. Vậy, UBND xã T có thể giải quyết việc đăng ký nhận nuôi con nuôi cho nhà sư được không?
UBND cấp xã không giải quyết yêu cầu xin đăng ký nhận nuôi con nuôi của các nhà sư đang tu hành tại các chùa. Vì các nhà sư đều là những người đã xuất gia tu hành, nên không thể tạo lập cho trẻ em một mái ấm gia đình bình thường; do đã không đạt được mục đích nuôi con nuôi được quy định tại Điều 2 của Luật Nuôi con nuôi. Mặc khác, các nhà sư khó đáp ứng được yêu cầu đặt ra đối Với người xin nhận con nuôi được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi. Trong trường hợp này UBND xã T, huyện Phú Xuyên cần tìm người có đủ điều kiện để nhận nuôi trẻ em bị bỏ rơi nêu trên. Nếu không có người nhận nuôi trẻ, thì UBND xã T lập hồ sơ chuyển trẻ em vào chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội thuộc ngành lao động, thương binh và xã hội.
Hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi gồm những giấy tờ gì?
Hồ sơ của trẻ em được cho làm con nuôi gồm các giấy tờ sau: - Giấy khai sinh; - Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; - Hai ảnh toàn thân, nhìn thẳng chụp không quá 6 tháng; - Ngoài ra, tùy từng trường hợp còn có một trong các giấy tờ sau: Biên bản xác nhận do UBND hoặc Công an cấp xã nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi lập đối Với trẻ em bị bỏ rơi; Giấy chứng tử của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ đã chết, đã mất tích hoặc đã mất năng lực hành vi dân sự.
Cha mẹ nuôi cần chuẩn bị những giấy tờ gì để đăng ký nhận nuôi con nuôi?
Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi, hồ sơ của người nhận con nuôi (cha, mẹ nuôi) bao gồm các giấy tờ sau: - Đơn xin nhận con nuôi; - Bản sao Hộ chiếu, Giấy CMND hoặc giấy tờ có giá trị thay thế; - Phiếu lý lịch tư pháp (do Sở Tư pháp cấp); - Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân của người nhận con nuôi (đối Với trường hợp vợ, chồng cùng xin nhận con nuôi là Giấy chứng nhận kết hôn; đối Với trường hợp người sống độc thân là Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân); - Giấy khám sức khỏe của người nhận con nuôi do cơ quan y tế cấp huyện trở Lên cấp; - Văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế do UBND cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú cấp (trừ trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi).
Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi trong nước được quy định như thế nào?
UBND cấp xã nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. Trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì UBND cấp xã nơi thường trú của người nhận con nuôi (cha, mẹ nuôi) thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi chưa chuyển vào cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì UBND cấp xã nơi lập biên bản xác nhận tình trạng trẻ em bị bỏ rơi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. Trường hợp trẻ đang được nuôi dưỡng tại cơ sở nuôi dưỡng, thì UBND cấp xã nơi cơ sở nuôi dưỡng có trụ sở thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi.
Vợ chồng ông Trần Quang T (sinh năm 1973) và bà Nguyễn Lan H (sinh năm 1985), thường trú tại phường N, quận Tây Hồ có nguyện vọng xin nhận cháu Lê Thị M, sinh năm 2000 là con của bà Nguyễn Thanh B - chị gái bà Nguyễn Lan H làm con nuôi. Tuy nhiên, UBND phường N, quận Tây Hồ băn khoăn về việc bà Nguyễn Lan H (mẹ nuôi) chỉ hơn cháu Lê Thị M 15 tuổi thì có giải quyết việc đăng ký nhận nuôi con nuôi được không?
Khoản 1 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi quy định về điều kiện nhận nuôi con nuôi như sau: "1. Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; d) Có tư cách đạo đức tốt." Tuy nhiên, khoản 3 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi cũng quy định: “ Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này”. Trường hợp của ông Trần Quang T và bà Nguyễn Lan H là trường hợp dì ruột nhận cháu làm con nuôi nên không áp dụng quy định phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. Vì vậy, căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi, trường hợp này UBND phường N, quận Tây Hồ có thể giải quyết việc đăng ký nhận nuôi con nuôi theo quy định.
Khi nhận nuôi con nuôi tôi có cần xin ý kiến của gia đình cháu bé không?
Theo Điều 21 Luật nuôi con nuôi số 52/2010/QH12 ngày 17 tháng 06 năm 2010 việc nhận con nuôi cần có sự đồng ý của cha mẹ của cháu bé. Nếu cha hoặc mẹ mất cần có sự đồng ý của người còn lại: “1. Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi; nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người còn lại; nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ; trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó. 2. Người đồng ý cho làm con nuôi quy định tại khoản 1 Điều này phải được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi nhận hồ sơ tư vấn đầy đủ về mục đích nuôi con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con sau khi người đó được nhận làm con nuôi. 3. Sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác. 4. Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày. ”
Các cơ quan nhà nước nào có trách nhiệm về quản lý việc nhận con nuôi?
Luật nuôi con nuôi số 52/2010/QH12 ban hành ngày 17 tháng 06 năm 2010 quy định các cơ quan nhà nước có trách nhiệm về quản lý việc nhận con nuôi tại Điều 44 gồm: Chính Phủ; Bộ Tư Pháp; Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ; UBND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ. Cụ thể: "Điều 44. Cơ quan quản lý nhà nước về nuôi con nuôi 1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về nuôi con nuôi. 2. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về nuôi con nuôi. 3. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về nuôi con nuôi. 4. Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về nuôi con nuôi tại địa phương."
Tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam khi nào được cấp phép hoạt động? Chức năng của tổ chức này là gì?
Tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam được cấp phép hoạt động khi thỏa mãn các điều kiện tại Khoản 1 Điều 43 Luật nuôi con nuôi số 52/2010/QH12 ngày 17 tháng 06 năm 2010 sau: “1. Tổ chức con nuôi nước ngoài được cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Được thành lập và hoạt động hợp pháp, phi lợi nhuận trong lĩnh vực nuôi con nuôi trên lãnh thổ của nước là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi mà Việt Nam là thành viên; b) Được cơ quan có thẩm quyền về nuôi con nuôi của nước nơi thành lập cho phép hoạt động trong lĩnh vực nuôi con nuôi tại Việt Nam; c) Có thời gian hoạt động trong lĩnh vực con nuôi quốc tế liên tục từ 03 năm trở lên, không vi phạm pháp luật và được cơ quan có thẩm quyền của nước đó xác nhận; d) Có đội ngũ nhân viên công tác xã hội và pháp lý hiểu biết về pháp luật, văn hóa, xã hội của Việt Nam và pháp luật quốc tế về nuôi con nuôi; đ) Người đại diện của tổ chức tại Việt Nam có đủ tiêu chuẩn về đạo đức, chuyên môn về lĩnh vực nuôi con nuôi. ” Chức năng của tổ chức đó chính là tư vấn cho người nhận nuôi con nuôi cũng như thay mặt cho người nhận nuôi con nuôi làm các thủ tục giấy tờ liên quan đến việc nhận nuôi con quy định tại khoản 2 Điều 43 Luật nuôi con nuôi số 52/2010/QH12 ngày 17 tháng 06 năm 2010: Tổ chức con nuôi nước ngoài hoạt động tại Việt Nam có các quyền, nghĩa vụ sau đây: "a) Tư vấn cho người nhận con nuôi về điều kiện kinh tế - xã hội, hoàn cảnh gia đình, môi trường xã hội, nhu cầu và sở thích của trẻ em Việt Nam; b) Thay mặt người nhận con nuôi thực hiện các thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi ở Việt Nam; c) Hỗ trợ tìm gia đình thay thế cho trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác; d) Được cung cấp thông tin, pháp luật và tham gia các khóa bồi dưỡng về nuôi con nuôi do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam tiến hành; đ) Thuê trụ sở, sử dụng lao động Việt Nam làm việc theo quy định của pháp luật; e) Chấp hành pháp luật, tôn trọng phong tục, tập quán của Việt Nam; g) Định kỳ hằng năm báo cáo về tình hình phát triển của trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi gửi Bộ Tư pháp; h) Hỗ trợ cha mẹ nuôi trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam cho trẻ em được nhận làm con nuôi; i) Nộp lệ phí cấp, gia hạn, sửa đổi giấy phép hoạt động tại Việt Nam; k) Báo cáo tình hình hoạt động, chịu sự kiểm tra, thanh tra của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam theo quy định của pháp luật."
Tôi muốn nhận cháu ruột làm con nuôi (cháu gọi tôi bằng dì), hiện nay bé được 3 tuổi. Tôi cần phải liên hệ đến cơ quan nào để làm thủ tục nhận nuôi con nuôi, hồ sơ gồm những giấy tờ gì?
Thứ nhất, về thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi: Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21-3- 2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi quy định: Trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi hoặc có sự thỏa thuận giữa người nhận con nuôi với cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được nhận làm con nuôi, thì UBND cấp xãthường trú của người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. Theo như bà trình bày thì hiện nay bà muốn nhận người cháu ruột làm con nuôi, căn cứ vào quy định trên hướng dẫn bà liên hệ đến UBND phường Tân An để làm thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi. Thứ hai, thành phần hồ sơ gồm các giấy tờ sau: Căn cứ Điều 17 Luật Nuôi con nuôi 2010, hồ sơ của người nhận nuôi gồm: Đơn xin nhận con nuôi; Bản sao Giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ có giá trị thay thế; Phiếu lý lịch tư pháp; - Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân; - Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp. Hồ sơ của người được nhận làm con nuôi, Điều 18 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định: Giấy khai sinh; Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; Hai ảnh toàn thân, nhìn thẳng chụp không quá 6 tháng.
Tôi muốn nhận một em bé bị bỏ rơi từ cơ sở bảo trợ xã hội làm con nuôi. Vậy tôi phải đáp ứng điều kiện gì để được nhận con nuôi? Việc nhận con nuôi có cần phải có sự đồng ý của người chồng không?
- Người muốn nhận nuôi con nuôi cần phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi 2010 như sau: - Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; - Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; - Có tư cách đạo đức tốt. - Và nếu rơi vào các trường hợp sau đây thì không được nhận con nuôi: - Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; - Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; - Đang chấp hành hình phạt tù; - Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. Khoản 3 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định “Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng”. Như vậy, hiện nay bà đãkết hôn nên để được nhận nuôi đứa bé, bà cần phải có sự đồng ý của người chồng và cả hai vợ chồng đều phải đáp ứng được các điều kiện nêu trên thì mới được nhận nuôi con nuôi.
Tôi làcon nuôi của vợ chồng ông bàA, vừa qua cha mẹ nuôi của tôi bị tai nạn giao thông mất nên không để lại di chúc. Xin hỏi tôi có được thừa kế tài sản của cha mẹ nuôi như những người con của họ hay không?
Theo Điều 675 Bộ luật Dân sự, trong trường hợp người để lại di sản thừa kế mất mà không để lại di chúc, việc chia di sản cho những người thừa kế sẽ được thực hiện chia theo quy định của pháp luật. Tại Điều 676 Bộluật Dân sựquy định, những người thừa kế thuộc hàng thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết thìnhững người thừa kế cùng hàng thừa kế sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau mà không phân biệt con đẻ hay con nuôi. Như vậy, kể cả khi anh là con nuôi, anh có quyền hưởng phần di sản thừa kế do cha mẹ nuôi để lại ngang với các con đẻ của cha mẹ nuôi. Tuy nhiên, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chỉ được xác lập khi: 1. Tại thời điểm nhận nuôi con nuôi, việc nuôi con nuôi được đăng ký tại UBND xã, phường, thị trấn nơi thường trú của cha mẹ nuôi hoặc con nuôi; 2. Trường hợp việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế mà chưa đăng ký trước ngày 1/1/2011, nếu đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật Nuôi con nuôi thì được đăng ký kể từ ngày 1/1/2011 đến hết ngày 31/12/2015 tại UBND cấp xã nơi thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi (căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi). Nếu anh đáp ứng những quy định trên thìanh được hưởng phần di sản do cha mẹnuôi đểlại theo quy định pháp luật.
Tôi có nguyện vọng muốn nhận đứa cháu gọi tôi bằng ông ngoại thứ làm con nuôi, (thực tế tôi nuôi cháu từ khi cháu sinh ra năm 2004) nhưng UBND xã từ chối không cho. Xin hỏi, UBND xã từchối như vậy cóđúng không?
Căn cứ khoản 6 Điều 13 Luật Nuôi con nuôi ban hành năm 2010 có quy định cấm việc “Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi”. Quy định này nhằm đảm bảo cho việc nuôi con nuôi không làm thay đổi thứ bậc trong quan hệ gia đình. Như vậy, trường hợp bà là bà ngoại thứcủa trẻ, mặc dù không phải là bà ngoại ruột mà xin nhận trẻ làm con nuôi đã vi phạm quy định nêu trên. Việc UBND xã từ chối yêu cầu đăng ký nuôi con nuôi dựa trên căn cứ pháp luật đã nêu là hợp pháp. Tuy nhiên bà đã nuôi cháu bé từ năm 2004 nên bà có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền thực hiện thủ tục giám hộ đối với đứa trẻ theo quy định pháp luật.
Vợ chồng tôi có nhận một đứa con nuôi, có làm thủ tục nhận nuôi đàng hoàng. Nhưng càng lớn, đứa con này càng coi cha mẹ không ra gì, chưa kể thường xuyên phá tán tài sản. Chúng tôi chịu hết nổi, yêu cầu con dọn ra ở riêng. Khi đứa con này không còn sống với chúng tôi thì chúng tôi hết trách nhiệm chưa?
Dù con nuôi của ông bà có dọn ra ở riêng, nhưng chưa tiến hành các thủ tục chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định thì quyền và nghĩa vụ giữa ông, bà và người con nuôi ấy vẫn còn. Theo khoản 1 Điều 27 Luật Nuôi con nuôi: Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của tòa án có hiệu lực pháp luật. Do đó, để không còn ràng buộc nhau về quyền và nghĩa vụ, ông có thể yêu cầu tòa án giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi, nếu có các căn theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 25 Luật Nuôi con nuôi. Theo điều luật này, việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây: con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi; con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi.
Tôi muốn hỏi Luật BHXH quy định chế độ trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận con nuôi như thế nào? Và Luật cũng quy định thời gian hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản ra sao? Tôi xin cảm ơn!
Luật BHXH năm 2014 quy định chế độ trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận con nuôi như sau: Lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì được trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng lao động nữ sinh con hoặc tháng người lao động nhận nuôi con nuôi. Trường hợp sinh con nhưng chỉ có cha tham gia BHXH thì cha được trợ cấp một lần bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng sinh con cho mỗi con. Về thời gian hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản Luật BHXH năm 2014 quy định: 1. Lao động nữ ngay sau thời gian hưởng chế độ thai sản, trong khoảng thời gian 30 ngày đầu làm việc mà sức khỏe chưa phục hồi thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ từ 05 ngày đến 10 ngày. Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe bao gồm cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. Trường hợp có thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe từ cuối năm trước chuyển tiếp sang đầu năm sau thì thời gian nghỉ đó được tính cho năm trước. 2. Số ngày nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe do người sử dụng lao động và Ban Chấp hành công đoàn cơ sở quyết định, trường hợp đơn vị sử dụng lao động chưa thành lập công đoàn cơ sở thì do người sử dụng lao động quyết định. Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe được quy định như sau: - Tối đa 10 ngày đối với lao động nữ sinh một lần từ hai con trở lên; - Tối đa 07 ngày đối với lao động nữ sinh con phải phẫu thuật; - Tối đa 05 ngày đối với các trường hợp khác. 3. Mức hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản một ngày bằng 30% mức lương cơ sở.
Kính gửi các luật sư, Gia đình cháu đang gặp một tình huống như thế này và mong luật sư tư vấn cho cháu ah. Vợ chồng chị gái cháu vì bị bệnh nên không có khả năng sinh con. Cách đây khoảng gần 7 năm vợ chồng anh chị cháu có nhận nuôi một đứa trẻ khoảng 6 tuổi ở trong trại mồ côi về làm con nuôi. Lúc nhận vợ chồng anh chị cháu chỉ biết là nó có một bà nội nhưng không đủ khả năng nuôi nên gửi nó vào trại và tưởng rằng bố mẹ nó đã chết nên làm thủ tục nhận nuôi. Giờ nó đã đi học lớp 7 và nó biết được anh chị cháu không phải là bố mẹ đẻ của nó nên  hay ăn cắp tiền của gia đình, chơi bời lêu lỏng và sống không còn nhiều tình cảm thân thiết với bố mẹ nuôi của nó. Mặc dù anh chị cháu đã nhiều lần khuyên nó nhưng nó vẫn không thay đổi. Và anh chị cháu cách đây 2 năm cũng phát hiện là bố đẻ của nó vẫn còn sống và vừa ra khỏi trại cai nghiện. Bố nó biết được tung tích của nó và biết được gia đình anh chị cháu có tiền bạc nên hay lấy cớ đến thăm con và yêu cầu cung cấp tiền bạc cho ông ta nếu không ông ta đòi lại con. Vì anh chị cháu không hiểu rõ pháp luật nên đã nhiều lần đưa tiền cho ông ta.Hiện tại chị gái cháu rất mệt mỏi, sợ sau này sẽ có nhiều chuyện không hay xảy ra  và cũng không có nhiều tình cảm với đứa trẻ này nữa cho nên bây giờ chị gái cháu muốn chấm dứt việc nuôi con nuôi với đưa trẻ nhưng anh chồng không đồng ý. Vậy cháu xin hỏi luật sư: 1. Trong trường hợp trên thì làm thế nào để chấm dứt việc nuôi con nuôi một cách hợp pháp 2. Giả dụ anh chị cháu bây giờ chưa thể chấm dứt việc nuôi con nuôi với đứa trẻ này thì sau này sau khi nó 18 tuổi thì nó có quyền hưởng tài sản thừa kế không? 3. Nếu bây giờ chị cháu xin ly hôn, nếu yêu cầu ly hôn được tòa án chấp nhận  thì đứa trẻ này sẽ được hưởng những quyền gì ngoài quyền được trợ cấp nuôi dưỡng ah ??
Muốn chấm dứt việc nuôi con nuôi thì bạn làm đơn tới Tòa án để được giải quyết nếu có những căn cứ theo điều 25 Lụât Nuôi con nuôi: " Điều 25. Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây: 1. Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi; 2. Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi; 3. Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi; 4. Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật này. " Tài sản do cha mẹ tạo lập thì vẫn là của cha mẹ. Trừ trường hợp cha hoặc mẹ hoặc cả 2 chết mà không để lại di chúc thì con nuôi được hưởng thừa kế theo pháp luật Trường hợp vợ chồng ly hôn, chồng tiếp tục nuôi dưỡng thì người vợ có nghĩ vụ cấp dưỡng cho chồng để nuôi con cho đến khi con đủ 18 tuổi. Mức cấp dưỡng phụ thuộc vào nhu cầu của đứa trẻ, thu nhập của người cấp dưỡng.
Chào luật sư ! Tôi muốn thay đổi giấy khai sinh cho con nuôi của tôi, thay đổi tên mẹ là tên tôi có được không? Xin luật sư vui lòng hướng dẫn cho tôi. Kính trọng!
Nghị định 19 năm 2011 của Chính Phủ hướng dẫn luật Nôi con nuôi quy định: "Điều 10. Thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi Thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi được thực hiện theo quy định tại Điều 22 của Luật Nuôi con nuôi và quy định cụ thể sau đây: 1. Việc đăng ký nuôi con nuôi được tiến hành tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã. Khi đăng ký nuôi con nuôi, cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ, người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng và người được nhận làm con nuôi phải có mặt. Công chức tư pháp – hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký nuôi con nuôi và trao Giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho các bên. 2. Trường hợp con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi mà phần khai về cha mẹ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh đang lưu giữ tại Ủy ban nhân dân cấp xã còn để trống, thì căn cứ vào Giấy chứng nhận nuôi con nuôi, công chức tư pháp – hộ tịch ghi bổ sung các thông tin của cha mẹ nuôi vào phần khai về cha mẹ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh của con nuôi; tại cột ghi chú trong Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ là cha mẹ nuôi. 3. Trường hợp có sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi, sự đồng ý của con nuôi từ 9 tuổi trở lên về việc thay đổi phần khai về cha mẹ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh của con nuôi; thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký khai sinh cho trẻ em đăng ký khai sinh lại cho con nuôi và thu hồi Giấy khai sinh cũ; tại cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ là cha mẹ nuôi." Như vậy, bạn muốn thay đổi tên của bạn là mẹ của đứa trẻ phải được sự đồng ý của cha mẹ chúng. Bạn liên hệ UBND cấp xã nơi bạn làm thủ tục nhận con nuôi để cán bộ tư pháp hướng dẫn thêm
Xin chào luật sư, Bạn trai tôi là người Mỹ, anh có 1 đứa con nuôi. Bé là con của bạn gái cũ của bạn trai tôi và 1 người khác (cả 2 đều là người Việt Nam). Nhưng cả 2 người này đều không muốn chăm sóc cho bé nên bạn trai tôi đã nhận nuôi bé. Trong giấy khai sinh của bé chỉ có tên mẹ, không có tên bố.  Từ lúc bé sinh ra đến nay thì bạn trai tôi là người chăm sóc cho bé, mẹ bé không hề chăm sóc bé. Hiện nay bạn trai tôi muốn làm thủ tục nhận con nuôi, nhưng theo tôi được biết thì nếu mẹ ruột không từ bỏ quyền nuôi con và bạn trai tôi là người nước ngoài độc thân thì không thể nhận con nuôi trừ khi anh kết hôn với tôi và tôi nhận nuôi bé thì bạn trai tôi mới có thể nhận nuôi bé được đúng không ạ?  Giả sử trường hợp mẹ bé không đồng ý nhưng bạn trai tôi vẫn muốn nhận nuôi bé thì phải giải quyết như thế nào ạ? Và tên mẹ ruột trong giấy khai sinh có thay đổi được không khi không có tên cha ruột?  Xin nhờ luật sư tư vấn dùm, chân thành cám ơn ạ!
Theo quy định của Luật nuôi con nuôi thì trường hợp bạn của bạn nếu muốn nhận bé làm con nuôi thì phải được sự đồng ý của mẹ bé. Nếu mẹ bé không đồng ý thì bạn của bạn không thể nhận bé làm con nuôi được. bạn của bạn có thể giải thích các quyền lợi có thể mang lại cho bé khi bé được nhận làm con nuôi để giúp mẹ của bé hiểu rõ hơn những lợi ích và có thể làm điều tốt nhất cho con mình. Nếu bạn của bạn không thuộc trường hợp không được nhận con nuôi, thì có thể liên hệ Sở tư pháp để được hướng dẫn các thủ tục cụ thể. Bạn có thể tham khảo thêm các quy định sau: Điều 21: Sự đồng ý cho làm con nuôi: 1. Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi; nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người còn lại; nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ; trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó. 2. Người đồng ý cho làm con nuôi quy định tại khoản 1 Điều này phải được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi nhận hồ sơ tư vấn đầy đủ về mục đích nuôi con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con sau khi người đó được nhận làm con nuôi. 3. Sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác. 4. Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày. Điều 28. Các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. 2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài được nhận con nuôi đích danh trong các trường hợp sau đây: a) Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi; b) Là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi; c) Có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi; d) Nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi; đ) Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất là 01 năm. 3. Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi. 4. Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam. Điều 29. Điều kiện đối với người nhận con nuôi 1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy định tại Điều 14 của Luật này. 2. Công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 14 của Luật này và pháp luật của nước nơi người được nhận làm con nuôi thường trú.
Năm 2005, vợ chồng tôi có nhận một cháu bé 5 tuổi ở cùng xã làm con nuôi, hiện nay cháu vẫn được vợ chồng tôi nuôi dưỡng rất tốt. Tuy nhiên, do không hiểu biết nên lúc nhận nuôi cháu vợ chồng tôi đã không đăng ký với Ủy ban nhân dân xã. Vậy, bây giờ chúng tôi muốn đăng ký có được không? Thủ tục như thế nào?
Theo quy định tại Điều 50 Luật Nuôi con nuôi và Điều 23 Nghị định 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi thì việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế mà chưa đăng ký trước ngày 01/01/2011 thì được đăng ký kể từ ngày 01/01/2011 đến hết ngày 31/12/2015 tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của cha, mẹ nuôi và con nuôi. Điều kiện đăng ký việc nuôi con nuôi: - Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật; - Đến ngày 01/01/2011 quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống; - Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con. Vợ, chồng bà được đăng ký việc nuôi con nuôi nếu có đủ điều kiện trên. Hồ sơ và thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi thực tế được quy định tại Điều 24, 25 Nghị định 19/2011/NĐ-CP. Theo đó, bà nộp hồ sơ tại UBND xã nơi thường trú của bà, gồm những giấy tờ sau: - Tờ khai đăng ký nuôi con nuôi thực tế (trong Tờ khai cần ghi rõ ngày, tháng, năm nuôi con nuôi trên thực tế, có chữ ký của ít nhất hai người làm chứng); - Bản sao Giấy chứng minh nhân dân và Sổ hộ khẩu; - Bản sao Giấy khai sinh của người được nhận làm con nuôi; - Bản sao Giấy chứng nhận kết hôn của người nhận con nuôi (nếu có); - Giấy tờ, tài liệu khác để chứng minh về việc nuôi con nuôi (nếu có). Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã cử công chức Tư pháp – Hộ tịch phối hợp Công an cấp xã tiến hành kiểm tra, xác minh; nếu cả người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi đều còn sống, quan hệ cha mẹ và con giữa các bên vẫn đang tồn tại, các bên có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau trên thực tế như cha mẹ và con thì Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký việc nuôi con nuôi. Khi đăng ký việc nuôi con nuôi, cả người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi đều phải có mặt. Công chức Tư pháp – Hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký nuôi con nuôi và trao Giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho các bên. Quan hệ pháp lý giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có hiệu lực kể từ thời điểm nuôi con nuôi trên thực tế.
Năm 2000, vợ chồng tôi có nhận nuôi con nuôi. Hiện nay, cháu đã được 16 tuổi nhưng rất hư đốn, thường xuyên xúc phạm vợ chồng tôi, chơi bời phá tán tài sản gia đình. Vậy chúng tôi muốn chấm dứt quan hệ với người con nuôi này có được không?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 25 Luật Nuôi con nuôi thì một trong những căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi là con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi. Và theo quy định tại Khoản 1 Điều 26 Luật Nuôi con nuôi thì cha mẹ nuôi là một trong những người có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi. Đối chiếu với quy định trên thì vợ chồng ông có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi trong trường hợp con nuôi của ông bà thường xuyên súc phạm ông bà và chơi bời phá tán tài sản của ông bà. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cha, mẹ nuôi hoặc con nuôi cư trú (Theo khoản 5 Điều 28, điểm b khoản 2 Điều 33, điểm l khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự). Hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi là: - Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Toà án có hiệu lực pháp luật. - Trường hợp con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa án quyết định giao cho cha, mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó. - Trường hợp con nuôi được giao lại cho cha mẹ đẻ thì các quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ đẻ được khôi phục. - Trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó; nếu con nuôi có công lao đóng góp vào khối tài sản chung của cha mẹ nuôi thì được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. - Con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình như trước khi được cho làm con nuôi. Vậy, ông có thể liên hệ với Tòa án nhân dân huyện An Dương để được hướng dẫn chi tiết.
Vợ chồng chị gái tôi không may bị tai nạn qua đời. Con trai của anh chị năm nay đã 17 tuổi, tôi chỉ hơn cháu có 15 tuổi. Tôi muốn nhận cháu làm con nuôi có được không? Nếu được thì thủ tục như thế nào?
Theo quy định tại Điều 8 và Điều 14 Luật Nuôi con nuôi thì với trường hợp nuôi con nuôi trong nước thông thường, người được nhận làm con nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi và người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: - Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; - Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; - Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; - Có tư cách đạo đức tốt. Tuy nhiên, trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi vẫn được nhận làm con nuôi, và người nhận con nuôi thì chỉ cần đảm bảo 2 điều kiện là: có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có tư cách đạo đức tốt. Đối chiếu với quy định trên thì cháu chị năm nay 17 tuổi, chị hơn cháu 15 tuổi, nếu chị đáp ứng các điều kiện nêu trên thì chị được nhận cháu làm con nuôi. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 21 Luật Nuôi con nuôi thì trong trường hợp nhận nuôi con nuôi này bắt buộc phải được sự đồng ý của cháu chị. Theo quy định tại Điều 9, 17, 18, 19 Luật Nuôi con nuôi thì chị nộp hồ sơ của chị và cháu tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi chị hoặc cháu thường trú để đăng ký việc nuôi con nuôi. Hồ sơ của chị ( người nhận con nuôi) gồm có: - Đơn xin nhận con nuôi; - Bản sao Hộ chiếu, Giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ có giá trị thay thế; - Phiếu lý lịch tư pháp; - Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân; Hồ sơ của cháu chị (người được nhận làm con nuôi) gồm có: - Giấy khai sinh; - Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; - Hai ảnh toàn thân, nhìn thẳng chụp không quá 06 tháng; - Giấy chứng tử của cha đẻ, mẹ đẻ; Thời hạn giải quyết việc nuôi con nuôi là 30 ngày, kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp xã nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Việc đăng ký nhu cầu nhận con nuôi đối với công dân Việt Nam được qui định như thế nào?
Theo qui định tại Điều 16 Luật nuôi con nuôi thì: Công dân Việt Nam có nguyện vọng và đủ điều kiện nhận con nuôi theo quy định của Luật này nhưng chưa tìm được trẻ em để nhận làm con nuôi thì đăng ký nhu cầu nhận con nuôi với Sở Tư pháp nơi người đó thường trú; nếu có trẻ em để giới thiệu làm con nuôi thì Sở Tư pháp giới thiệu đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em đó thường trú để xem xét, giải quyết
Tôi muốn nhận con riêng của vợ tôi làm con nuôi vậy thủ tục cần phải có những gi?
Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi thì anh (chị) thuộc hàng ưu tiên thứ nhất trong việc lựa chọn tìm gia đình thay thế cho trẻ em. Anh chị có thể nhận con riêng của vợ (chồng) mình làm con nuôi nếu cháu bé chưa đủ 18 tuổi. Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Nuôi con nuôi đã có quy định về thẩm quyền và thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước. Trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. Anh (chị) lập hồ sơ đăng ký nuôi con nuôi theo các Điều 17,18 Luật Nuôi con nuôi và tiến hành thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi được quy định tại các Điều 7, 8, 9 và khoản 1, 3 Điều 10 của Nghị định 19//2011/NĐ-CP.
Tôi hiện đang làm việc và cư trú tại Pháp. Trước đây tôi có nhận một cháu là con một bạn làm con nuôi nhưng không có giấy tờ gì. Nay tôi muốn hỏi, tôi muốn nhận cháu làm con nuôi theo pháp luật hoặc làm người giám hộ cho cháu được không?
Bạn muốn nhận cháu bé này làm con nuôi thuộc trường hợp xin nhận con nuôi đích danh. Khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngòai thường trú ở nước ngoài chỉ được phép xin nhận con nuôi đích danh trong các trường hợp sau: “2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài được nhận con nuôi đích danh trong các trường hợp sau đây: a) Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi; b) Là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi; c) Có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi; d) Nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi; đ) Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất là 01 năm. 3. Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi. 4. Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam.” Ngoài ra, theo quy định tại Điều 29 về điều kiện đối với người nhận con nuôi bạn phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi bạn thường trú và quy định tại Điều 14 của Luật Nuôi con nuôi 2010 về điều kiện đối với người nhận con nuôi “Điều 14 Luật Nuôi con nuôi 2010 Điều kiện đối với người nhận con nuôi 1. Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; d) Có tư cách đạo đức tốt. 2. Những người sau đây không được nhận con nuôi: a) Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; b) Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; c) Đang chấp hành hình phạt tù; d) Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. 3. Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này.” Nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện trên, mời bạn liên hệ với Sở Tư pháp trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố thuộc tỉnh nơi thường trú của trẻ em để làm thủ tục xin nhận con nuôi tại Việt Nam.
Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi được quy định như thế nào?
-Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình. Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi được thực hiện theo quy định tại Điều 9 của Luật Nuôi con nuôi như sau: “1. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước. 2. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi quyết định việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. 3. Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài đăng ký việc nuôi con nuôi của công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài.” Quy định cụ thể tại Điều 2 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP sau đây: 1. Đối với việc nuôi con nuôi trong nước, thì Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã), nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. Trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi hoặc có sự thỏa thuận giữa người nhận con nuôi với cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã thường trú của người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi chưa chuyển vào cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập biên bản xác nhận tình trạng trẻ em bị bỏ rơi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi; trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. 2. Đối với việc nuôi con nuôi nước ngoài, thì Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh), nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi quyết định cho người đó làm con nuôi; trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng trẻ em quyết định cho trẻ em đó làm con nuôi. Sở Tư pháp thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi nước ngoài sau khi có quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. 3. Đối với việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau tạm trú ở nước ngoài, thì Cơ quan đại diện nơi tạm trú của người được nhận làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi; trường hợp cả hai bên tạm trú ở nước không có Cơ quan đại diện, thì người nhận con nuôi nộp hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi tại Cơ quan đại diện nào thuận tiện nhất đối với họ.
Hồ sơ của người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi trong nước cần có những giấy tờ gì?
Theo Điều 17 Luật Nuôi con nuôi quy định thì hồ sơ của người nhận con nuôi trong nước gồm các giấy tờ sau: 1. Đơn xin nhận con nuôi; 2. Bản sao Hộ chiếu, Giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ có giá trị thay thế; 3. Phiếu lý lịch tư pháp; 4. Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân; 5. Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 14 của Luật Nuôi con nuôi. Hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi trong nước gồm có: a) Giấy khai sinh; b) Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; c) Hai ảnh toàn thân, nhìn thẳng chụp không quá 06 tháng; d) Biên bản xác nhận do Ủy ban nhân dân hoặc Công an cấp xã nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi lập đối với trẻ em bị bỏ rơi; Giấy chứng tử của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của trẻ em là đã chết đối với trẻ em mồ côi; quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất tích đối với người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ đẻ mất tích; quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất năng lực hành vi dân sự đối với người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ để mất năng lực hành vi dân sự; đ) Quyết định tiếp nhận đối với trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng. Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ lập hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi sống tại gia đình; cơ sở nuôi dưỡng lập hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi sống tại cơ sở nuôi dưỡng. Người nhận con nuôi phải nộp hồ sơ của mình và hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được giới thiệu làm con nuôi thường trú hoặc nơi người nhận con nuôi thường trú. Thời hạn giải quyết việc nuôi con nuôi là 30 ngày, kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp xã nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Luật Nuôi con nuôi cũng quy định: Ủy ban nhân dân cấp xã nơi nhận hồ sơ có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ; trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, tiến hành xong việc lập ý kiến của những người quy định tại Điều 21 của Luật này. Việc lấy ý kiến phải lập thành văn bản và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người được lấy ý kiến.
Quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài được quy định như thế nào? Trách nhiệm kiểm tra, xác minh hồ sơ và xác nhận trẻ em có đủ điều kiện được làm con nuôi thuộc cơ quan nào?
Theo quy định tại Điều 33 Luật Nuôi con nuôi thì trách nhiệm kiểm tra, xác minh hồ sơ và xác nhận trẻ em có đủ điều kiện được cho làm con nuôi được quy định như sau: 1. Sở Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, tiến hành lấy ý kiến của những người quy định tại Điều 21 của Luật này trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Việc lấy ý kiến phải lập thành văn bản và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người được lấy ý kiến. Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi cần được xác minh thì Sở Tư pháp đề nghị Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xác minh; cơ quan công an có trách nhiệm xác minh và trả lời bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của Sở Tư pháp. 2. Sau khi kiểm tra, xác minh theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy trẻ em có đủ điều kiện để cho làm con nuôi nước ngoài thì Sở Tư pháp xác nhận và gửi Bộ Tư pháp. Luật Nuôi con nuôi cũng quy định trách nhiệm kiểm tra và chuyển hồ sơ của người nhận con nuôi - Bộ Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra và xử lý hồ sơ của người nhận con nuôi theo quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. - Trường hợp người nhận con nuôi đích danh quy định tại khoản 2 Điều 28 của Luật Nuôi con nuôi, Bộ Tư pháp chuyển hồ sơ cho Sở Tư pháp nơi người được giới thiệu làm con nuôi thường trú để trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định. - Sau khi kết thúc thời hạn thông báo tìm gia đình thay thế cho trẻ em theo quy định tại khoản 2 Điều 15 của Luật này, nếu trẻ em không được người trong nước nhận làm con nuôi thì Bộ Tư pháp chuyển hồ sơ của người nhận con nuôi cho Sở Tư pháp nơi trẻ em được giới thiệu làm con nuôi thường trú để xem xét, giới thiệu trẻ em làm con nuôi theo trình tự quy định tại Điều 36 của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. Việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước ngoài được thực hiện vì lợi ích của trẻ em, có tính đến lợi ích của người nhận con nuôi trên cơ sở bảo đảm những yêu cầu cơ bản sau đây: 1. Đặc điểm, sở thích, thói quen đáng lưu ý của trẻ em; 2. Khả năng hòa nhập và phát triển của trẻ em; 3. Điều kiện kinh tế, môi trường gia đình, xã hội và nguyện vọng của người nhận con nuôi. Do đó để quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài và tổ chức giao nhận con nuôi đầu tiên phải tuân thủ trình tự giới thiệu con nuôi được quy định tại Điều 36 Luật Nuôi con nuôi như sau: 1. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ của người nhận con nuôi, Sở Tư pháp xem xét, giới thiệu trẻ em làm con nuôi trên cơ sở bảo đảm các căn cứ quy định tại Điều 35 của Luật này và báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Sở Tư pháp trình, nếu Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đồng ý thì thông báo cho Sở Tư pháp để làm thủ tục chuyển hồ sơ cho Bộ Tư pháp; trường hợp không đồng ý thì trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Trước khi Sở Tư pháp xem xét, giới thiệu trẻ em làm con nuôi nước ngoài, nếu có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì người đó liên hệ với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em thường trú để xem xét, giải quyết; nếu việc nhận con nuôi đã hoàn thành thì Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo Sở Tư pháp để chấm dứt việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi nước ngoài. 2. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả giới thiệu trẻ em làm con nuôi, Bộ Tư pháp kiểm tra việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi, nếu hợp lệ thì lập bản đánh giá việc trẻ em Việt Nam đủ điều kiện được làm con nuôi nước ngoài và thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người nhận con nuôi thường trú. 3. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người nhận con nuôi thường trú thông báo về sự đồng ý của người nhận con nuôi đối với trẻ em được giới thiệu, xác nhận trẻ em sẽ được nhập cảnh và thường trú tại nước mà trẻ em được nhận làm con nuôi, Bộ Tư pháp thông báo cho Sở Tư pháp. Người nhận con nuôi không được có bất kỳ sự tiếp xúc nào với cha mẹ, người giám hộ hoặc cơ sở nuôi dưỡng trẻ em trước khi nhận được thông báo giới thiệu trẻ em làm con nuôi, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 28 của Luật này. 4. Trường hợp người nhận con nuôi từ chối nhận trẻ em được giới thiệu làm con nuôi mà không có lý do chính đáng thì việc giải quyết hồ sơ xin nhận con nuôi của người đó chấm dứt. » Quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài và việc tổ chức giao nhận con nuôi được quy định tại Điều 37 cụ thể: 1. Sau khi nhận được thông báo của Bộ Tư pháp quy định tại khoản 3 Điều 36 của Luật này, Sở Tư pháp trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Sở Tư pháp trình, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài. 2. Ngay sau khi có quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tư pháp thông báo cho người nhận con nuôi đến Việt Nam để nhận con nuôi. Người nhận con nuôi phải có mặt ở Việt Nam để trực tiếp nhận con nuôi trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Sở Tư pháp; trường hợp vợ chồng xin nhận con nuôi mà một trong hai người vì lý do khách quan không thể có mặt tại lễ giao nhận con nuôi thì phải có ủy quyền cho người kia; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn trên có thể kéo dài, nhưng không quá 90 ngày. Hết thời hạn nêu trên, nếu người nhận con nuôi không đến nhận con nuôi thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hủy quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài. 3. Sở Tư pháp đăng ký việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch và tổ chức lễ giao nhận con nuôi tại trụ sở Sở Tư pháp, với sự có mặt của đại diện Sở Tư pháp, trẻ em được nhận làm con nuôi, cha mẹ nuôi, đại diện cơ sở nuôi dưỡng đối với trẻ em được xin nhận làm con nuôi từ cơ sở nuôi dưỡng hoặc cha mẹ đẻ, người giám hộ của trẻ em đối với trẻ em được xin nhận làm con nuôi từ gia đình. Việc giao nhận con nuôi phải được lập thành biên bản, có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên và đại diện Sở Tư pháp. 4. Sau khi giao nhận con nuôi, Sở Tư pháp có trách nhiệm gửi Bộ Tư pháp quyết định cho trẻ em là con nuôi nước ngoài của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, biên bản giao nhận con nuôi, đồng thời gửi Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của trẻ em được cho làm con nuôi nước ngoài. 5. Bộ Tư pháp gửi quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài cho Bộ Ngoại giao để thông báo cho Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài về việc trẻ em được nhận làm con nuôi để thực hiện biện pháp bảo hộ trẻ em trong trường hợp cần thiết.
Tôi có nguyện vọng muốn nhận đứa cháu gọi tôi bằng bà dì làm con nuôi, tôi đã thực tế nuôi cháu từ khi cháu sinh ra (2004) nhưng UBND xã từ chối lấy căn cứ là khoản 6 Điều 13 Luật Nuôi con nuôi để từ chối. Tôi không phải là Bà ngoại ruột của cháu.
Khoản 6 Điều 13 Luật Nuôi con nuôi có quy định cấm việc “Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi”. Quy định này nhằm đảm bảo cho việc nuôi con nuôi không làm thay đổi thứ bậc trong quan hệ gia đình. Như vậy, trường hợp bạn là bà của trẻ, mặc dù không phải là bà ngoại ruột mà xin nhận trẻ làm con nuôi đã vi phạm quy định nêu trên. Việc UBND xã từ chối yêu cầu đăng ký nuôi con nuôi dựa trên căn cứ pháp luật đã nêu là hợp pháp. Tuy nhiên bạn đã nuôi cháu bé từ năm 2004 nên bạn có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền thực hiện thủ tục giám hộ đối với đứa trẻ.
Chồng tôi muốn nhận con riêng của tôi làm con nuôi và đổi họ cho cháu sang họ của anh, thủ tục cần phải có những gì, (cháu đang mang họ của tôi).
Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi thì anh (chị) thuộc hàng ưu tiên thứ nhất trong việc lựa chọn tìm gia đình thay thế cho trẻ em. Anh chị có thể nhận con riêng của vợ (chồng) mình làm con nuôi nếu cháu bé chưa đủ 18 tuổi. Nghị định số 19//2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Nuôi con nuôi đã có quy định về thẩm quyền và thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước. Trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. Anh (chị) lập hồ sơ đăng ký nuôi con nuôi theo các Điều 17,18 Luật Nuôi con nuôi và tiến hành Thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi được quy định tại các Điều 7, 8, 9 và khoản 1, 3 Điều 10 của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP. Việc thay đổi họ, tên của con đẻ sang họ, tên của cha mẹ nuôi sẽ được cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo các quy định của khoản 3 Điều 10 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP và các quy định pháp luật về quản lý và đăng ký hộ tịch có liên quan.
Chị gái tôi kết hôn và có 1 đứa con, tuy nhiên, khi bé mới được 8 tuổi thì chị gái tôi qua đời trong 1 vụ tai nạn, sau hai năm thì anh rể tôi kết hôn, và hiện giờ cháu gái tôi đang 12 tuổi, mẹ kế cháu và anh rể tôi cũng đã có 1 bé trai, không muốn cháu gái tôi sống trong cảnh mẹ kế con chồng, nên giờ tôi muốn nhận nuôi cháu bé làm con nuôi để đưa về trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, tuy nhiên, khi tôi bàn bạc và yêu cầu để có được sự đồng ý của bố cháu bé được nhận nuôi cháu thì đồng thời mẹ kế cháu cũng có ý muốn nhận nuôi và không đồng ý cho tôi nhận cháu làm con nuôi, còn anh rể tôi thấy thế thì cũng đang do dự, tôi nghĩ bà ta vì muốn giữ chân và lấy lòng anh rể tôi nên mới muốn nhận cháu bé làm con nuôi, chứ bình thường bà ấy đâu có quan tâm đến cháu gái tôi mấy. Vì vậy, tôi muốn nhờ luật sư tư vấn giúp: Tôi có thể giành quyền nhận cháu gái tôi làm con nuôi trong trường hợp này được hay không ? Về hoàn cảnh gia đình tôi, thì tôi đang mở cửa hàng kinh doanh buôn bán nhỏ nên kinh tế gia đình cũng có chút dư dả.
Đầu tiên, do cháu gái bạn năm nay 12 tuổi nên để có thể được làm người nhận con nuôi, bạn phải đáp ứng được điều kiện của người nhận con nuôi. Theo Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010 thì: - Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: + Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; + Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; + Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; + Có tư cách đạo đức tốt. Ngoài ra, không được thuộc một trong các trường hợp sau: + Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; + Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; + Đang chấp hành hình phạt tù; + Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. Tuy nhiên, do bạn là dì của cháu bé nên sẽ không bắt buộc phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên và có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. Điều kiện này cũng được áp dụng tương tự với mẹ kế của cháu gái bạn. Như vậy, nếu bạn có đủ điều kiện trên, thì bạn có thể được nhận cháu gái bạn làm con nuôi. Tuy nhiên, do bạn và mẹ kế cháu gái bạn đều cùng một hàng trong xét thứ tự ưu tiên nhận nuôi con nuôi theo Điều 5 Luật nuôi con nuôi năm 2010 nên muốn được nhận cháu gái bạn làm con nuôi thì bạn phải cần: + Chứng minh được bạn có điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi tốt nhất. + Có được sự đồng ý của cha đẻ cháu; + Sự đồng ý của cháu gái bạn.
Chào luật sư! Tôi có vấn đề thắc mắc như sau mong luật sư giải đáp giúp. Mẹ tôi không lập gia đình và xin có mình tôi về làm con nuôi từ đầu thập niên 90 đến giờ mẹ tôi vẫn sống cùng tôi và con trai tôi (tôi có 1 con riêng giờ ở với bà vì tôi đi bước nữa). Nhưng các anh trai và em trai ruột của mẹ tôi cùng các con trai của họ rất ghê, luôn luôn gây khó dễ và khinh thường tôi vì tôi là khiếp con nuôi. Vậy luật sư cho tôi hỏi: sau khi mẹ tôi mất thì tài sản mẹ tôi để lại tôi và con trai tôi có phải chia cho các bác, cậu, và cháu trai của mẹ tôi không? Nếu họ tranh giành với tôi thì tôi có mất những gì mẹ tôi để lại không? Giờ tôi rất hoang mang vì mẹ tôi bệnh tật suốt, không biết khi nào bà đi. mà nếu mẹ tôi mất thì chồng tôi có được hưởng 1 phần tài sản của bà không hay chỉ có tôi và con trai tôi được hưởng? Mong luật sư giải đáp giúp. tôi cám ơn rất nhiều.
Theo quy định hiện nay thì con nuôi được quyền thừa kế tài sản ngang bằng như con ruột và không có bất cứ một phân biệt đối xử nào cả. Do vậy, nếu mẹ nuôi của bạn ko có con ruột (vì ko lập gia đình) thì bạn là hàng thừa kế thứ nhất cùng với bố mẹ của mẹ nuôi bạn (nếu còn sống). Mặt khác, du là con nuôi nhưng bạn đã có trách nhiệm phụng dưỡng mẹ nuôi suốt từ bao nhiêu năm qua trong điều kiện bà không có con ruột thì vị trí của bạn cũng như là con ruột, đôi khi còn tốt hơn những đứa con ruột bất hiếu, không chăm lo gì đến cha mẹ mà chỉ chằm chằm vào vấn đề thừa hưởng tài sản. Do vậy, bạn cứ yên tâm làm tròn trách nhiệm của mình và sau khi mẹ nuôi qua đời, nếu bà ko để lại di chúc thì tài sản sẽ được bạn thừa hưởng theo quy định pháp luật thừa kế vì bạn là hàng thứ kế thứ nhất, các anh chị em của mẹ nuôi ko thể tranh chấp với bạn được vì ko phài lá hàng thừa kế thứ nhất như bạn. Ngoài ra, để chắc chắn thì bạn cũng có thể trao đổi, tham khảo ý kiến mẹ nuôi để lập di chúc để lại tài sản cho bạn tránh trường hợp bị tranh dành sau khi mẹ nuôi mất
Cháu được nhận làm con nuôi trong một gia đình khá giả nhưng lại hiếm muộn về đường con cái. Gia đình đó rất yêu thương, chiều chuộng cháu, đặc biệt là cha nuôi. Nhưng tất cả niềm tin vào cha nuôi hoàn toàn sụp đổ khi ông ta nhẫn tâm hãm hiếp cháu cho dù cháu đã cố van xin. Sau đó, ông ta bị tòa án kết tội hiếp dâm với hình phạt 10 năm tù giam. Cháu có thể xin chấm dứt việc làm con nuôi của gia đình này được không ạ?
Tại Điều 25 Luật Nuôi con nuôi quy đinh: “Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây: Thứ nhất, con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi; Thứ hai, con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi; Thứ ba, cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi; Thứ tư, thực hiện các hành vi bị cấm : - Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em; - Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi; - Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi; - Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số; - Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước; - Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi; - Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.” Người cha nuôi đã có hành vi hãm hiếp, cố ý xâm phạm tới tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của cháu, vi phạm đạo đức và truyền thống văn hóa của người Việt Nam. Hành vi và bản án kết tội hắn được xem là một trong các căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi. Tuy nhiên, cháu không thể tự mình yêu cầu cơ quan có thẩm quyền chấm dứt việc nuôi con nuôi được vì cháu chưa đủ tuổi thành niên. Trường hợp này phải gửi yêu cầu tới cơ quan lao động, thương binh và xã hội hoặc hội liên hiệp phụ nữ nơi cháu sinh sống để nhờ họ giúp đỡ.
Vợ chồng tôi đã kết hôn được năm năm rồi nhưng chưa có con (tôi 34 tuổi, vợ 30 tuổi). Ở gần nhà có một cháu bé năm nay đã tròn 16 tuổi, mồ côi cha mẹ nên chúng tôi muốn nhận cháu làm con nuôi. Vợ chồng tôi và cháu hoàn toàn không có quan hệ họ hàng gì cả. Vậy vợ chồng tôi có thể nhận cháu làm con nuôi không?
Căn cứ vào Điều 8 Luật Nuôi con nuôi quy định: “người được nhận làm con nuôi phải là trẻ em dưới 16 tuổi hoặc người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau: - Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi; - Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi". Cháu bé năm nay đã đủ 16 tuổi nên điều kiện bắt buộc người nhận nuôi cháu phải là cha dượng, mẹ kế hoặc cô, cậu, gì, chú, bác ruột mới nhận cháu làm con nuôi được. Điều này xuất phát từ việc muốn đảm bào cuộc sống tôt nhất cho trẻ em, vì lứa tuổi này tâm sinh lý khá nhạy cảm, dễ bị sa ngã vào những cám dỗ, quan trọng hơn hết là nhiều người lợi dụng việc nuôi con nuôi ở lứa tuổi 16 đến 18 để thực hiện những mục đích cá nhân: lợi dụng tình dục, chiếm đoạt tài sản (khi biết cháu có tài sản nên mới nhận làm con nuôi)… Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi nhưng vẫn đặt ra nhiều hạn chế nếu điều đó gây ảnh hưởng tới sự phát triển của các cháu. Tại Khoản 1 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi quy định: "đối với người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau: - Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; - Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; - Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; - Có tư cách đạo đức tốt". Điều kiện người nhận nuôi phải nhiều hơn con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên nên bạn chưa đáp ứng được vì vợ bạn hơn cháu 14 tuổi, bạn hơn cháu 16 tuổi. Theo đó, trường hợp của bạn đã không đáp ứng đủ cả hai điều kiện về người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi nên vợ chồng bạn không nhận cháu làm con nuôi được.
Năm 1988, vợ chồng tôi nhận nuôi 1 bé trai 1 tuổi làm con nuôi vì không sinh được con đẻ. Đến nay cháu 27 tuổi, tính tình rất ngỗ ngược, suốt ngày chỉ chơi bời, vợ chồng tôi khuyên can thế nào cháu cũng không nghe, thậm chí cháu còn có thái độ hỗn láo với vợ chồng tôi. Vì thế chúng tôi không muốn có người con nuôi này nữa. Xin hỏi chúng tôi phải làm thủ tục gì để chấm dứt việc nuôi con nuôi?
Điều 25 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định về căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi như sau: Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây: Thứ nhất, con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi; Thứ hai, khi con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi; Thứ ba, trường hợp cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi; Thứ tư, trường hợp thuộc các hành vi bị cấm, bao gồm: - Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em. - Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi. - Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi. - Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số. - Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước. - Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi. - Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Theo đó, khi con nuôi đã thành niên, cha mẹ nuôi có thể chấm dứt việc nuôi con nuôi. Điều này co nghĩa là vợ chồng bác có thể chấm dứt việc nuôi con nuối vì con nuôi của bác đã 24 tuổi. Về thủ tục chấm dứt việc nuôi con nuôi được thực hiện theo quy định tại Điều 10 Luật nuôi con nuôi 2010: Con nuôi đã thành niên, cha, mẹ đẻ, người giám hộ của con nuôi, cha, mẹ nuôi theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi Như vậy, để chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi, vợ chồng bà cần gửi đơn yêu cầu đến Tòa án cấp quận, huyện (nơi người con nuôi đã thành niên đang cư trú) để đề nghị giải quyết.
Vợ chồng tôi muốn nhận nuôi con nuôi nhưng chưa tìm được trẻ để nhận làm con nuôi thì có thể liên hệ với cơ quan nào để được nhận con nuôi?
Căn cứ Điều 16 Luật nuôi con nuôi năm 2010: “Công dân Việt Nam có nguyện vọng và đủ điều kiện nhận con nuôi theo quy định của Luật này nhưng chưa tìm được trẻ em để nhận làm con nuôi thì đăng ký nhu cầu nhận con nuôi với Sở Tư pháp nơi người đó thường trú; nếu có trẻ em để giới thiệu làm con nuôi thì Sở Tư pháp giới thiệu đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em đó thường trú để xem xét, giải quyết” Điều kiện nhận nuôi con nuôi, cụ thể là: “1. Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; d) Có tư cách đạo đức tốt. 2. Những người sau đây không được nhận con nuôi: a) Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; b) Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; c) Đang chấp hành hình phạt tù; d) Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. 3. Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này.” (Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010) Theo đó, nếu vợ chồng chị đủ điều kiện nhận nuôi con nuôi theo quy định trên và có nguyện vọng nhận nuôi con nuôi thì anh chị đến Sở Tư pháp nơi vợ chồng chị thường trú đăng ký nhu cầu nhận nuôi con nuôi. Khi có trẻ em để giới thiệu làm con nuôi thì Sở Tư pháp giới thiệu đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em đó thường trú để xem xét, giải quyết.
Tôi có một con riêng năm nay cháu 10 tuổi. Chồng tôi muốn nhận con riêng của tôi làm con nuôi và đổi họ cho cháu theo họ của anh ấy thì có được không? (Hiện cháu đang mang họ của tôi và giấy khai sinh không có tên cha cháu).
Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi 2010 thì chồng bạn thuộc hàng ưu tiên thứ nhất trong việc lựa chọn tìm gia đình thay thế cho con riêng của bạn. Tức là chồng bạn có thể nhận con riêng của bạn làm con nuôi nếu cháu bé chưa đủ 18 tuổi. Thủ tục nhận nuôi con nuôi: Các bạn lập hồ sơ đăng ký nuôi con nuôi theo các quy định tại Điều 17,18 Luật Nuôi con nuôi và tiến hành Thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi được quy định tại các Điều 7, 8, 9 Nghị định 19/2011/NĐ-CP. Về vấn đề thay đổi họ tên: Căn cứ vào Điều 24 Luật nuôi con nuôi 2010: "2. Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi. Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó." Khoản 3 Điều 10 Nghị định 19/2011/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết một số điều Luật nuôi con nuôi : "Trường hợp có sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi, sự đồng ý của con nuôi từ 9 tuổi trở lên về việc thay đổi phần khai về cha mẹ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh của con nuôi; thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký khai sinh cho trẻ em đăng ký khai sinh lại cho con nuôi và thu hồi Giấy khai sinh cũ; tại cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ là cha mẹ nuôi." Theo đó, các bạn có thể yêu cầu Ủy ban nhân dân xã nơi đã đăng ký khai sinh cho cháu đăng ký khai sinh lại cho cháu nếu được sự đồng ý của cháu vì cháu đã 10 tuổi.
Xin hỏi quyền lợi và nghĩa vụ của con nuôi và con đẻ có khác gì nhau không? Khi cha mẹ chết, quyền thừa kế của con đẻ và con nuôi như thế nào?
Căn cứ vào Điều 24 Luật nuôi con nuôi 2010 : "Hệ quả của việc nuôi con nuôi 1. Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan" Theo đó, quyền lợi và nghĩa vụ của con nuôi và con đẻ là như nhau. Đối với vấn đề thừa kế, Điều 676 quy định những người thừa kế thuộc hàng thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Dựa trên nguyên tắc không phân biệt đối xử trong quan hệ hôn nhân và gia đình, pháp luật quy định những người thừa kế cùng hàng thừa kế sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau mà không phân biệt con đẻ, con nuôi. Như vậy, con nuôi có quyền hưởng phần di sản thừa kế do bố mẹ nuôi để lại ngang với các con đẻ của bố mẹ nuôi.
Vợ chồng tôi và cô H là hàng xóm của nhau đã 10 năm. Cô H sống một mình và không có con cái gì. Mặc dù vợ chồng tôi không phải máu mủ của cô H nhưng tình cảm gắn bó không khác gì ruột thịt. Nay vợ chồng tôi muốn nhận cô làm mẹ nuôi thì có được không?
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Pháp luật khuyến khích việc nhận nuôi con nuôi. Tuy nhiên để có thể xác lập quan hệ nuôi con nuôi, chủ thể cần phải đáp ứng đủ các điều kiện sau: Thứ nhất, điều kiện về người được nhận làm con nuôi: “1. Trẻ em dưới 16 tuổi 2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi; b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi… ” (Điều 8 Luật nuôi con nuôi 2010). Thứ hai, điều kiện đối với người nhận con nuôi: “1. Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; d) Có tư cách đạo đức tốt. 2. Những người sau đây không được nhận con nuôi: a) Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; b) Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; c) Đang chấp hành hình phạt tù; d) Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em… ”. Theo quy định của pháp luật tuổi để được nhận con nuôi là dưới 16 tuổi. Vợ chồng bạn đều trên 16 tuổi. Do đó, vợ chồng bạn không đáp ứng được điều kiện về tuổi do pháp luật quy định. Trong trường hợp này, pháp luật sẽ không xác lập việc nuôi con nuôi giữa vợ chồng bạn và cô H.
Tôi ở thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh và muốn nhận con nuôi là cháu Hoa, 3 tuổi đang sống với mẹ ở huyện Yên Phong, Bắc Ninh. Tôi phải đến đâu để đăng ký nhận nuôi con nuôi?
Theo Khoản 1 Điều 9 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi như sau: “1. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước”. Khoản 1 Điều 2 Nghị định 19/2011 Quy định chi tiết thi hành một số điều Luật Nuôi con nuôi hướng dẫn: “1. Đối với việc nuôi con nuôi trong nước, thì Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã), nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. Trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi hoặc có sự thỏa thuận giữa người nhận con nuôi với cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã thường trú của người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi chưa chuyển vào cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập biên bản xác nhận tình trạng trẻ em bị bỏ rơi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi; trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi”. Như vậy, đối với trường hợp của bạn, cơ quan có thẩm quyền đăng ký cho bạn nhận nuôi con nuôi là UBND xã nơi người được nhận nuôi thường trú, tức là nơi thường trú của cháu Hoa mà bạn muốn nhận làm con nuôi. Tuy nhiên, nếu có sự thỏa thuận giữa bạn với mẹ cháu Hoa, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của bạn cũng có thể thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi.
Con năm nay 15 tuổi. Cô ruột của con ở Pháp (đã có gia đình nhưng không có con) muốn nhận con làm con nuôi, ba mẹ con đều đồng ý. Cho con hỏi: 1. Con có được nhận làm con nuôi không? 2. Con có được thay đổi họ và tên theo họ của bố nuôi không? 3. Con có được bảo lãnh, định cư, học tập ở Pháp không? Con xin cảm ơn.
Thứ nhất: Điều kiện nhận làm con nuôi Do bạn muốn làm con nuôi của cô ruột bạn đang sinh sống ở Pháp nên trường hợp này là nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài. Khoản 1 Điều 8 Luật nuôi con nuôi 2010 quy định: Người được nhận làm con nuôi phải là trẻ em dưới 16 tuổi. Khoản 2 Điều 28 Luật này quy định các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như sau:“Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài được nhận con nuôi đích danh trong các trường hợp sau đây: a) Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi; b) Là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi; c) Có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi; d) Nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi; đ) Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất là 01 năm.” Bạn 15 tuổi, người nhận nuôi bạn là cô ruột của bạn nên theo quy định trên bạn có thể được nhận làm con nuôi của cô ruột bạn. Thứ hai: Về việc thay đổi họ tên Điểm b khoản 1 Điều 27 Bộ luật dân sự 2005 quy định cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ, tên trong trường hợp “Theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi họ, tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi không làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại họ, tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã đặt”. Như vậy, bạn có thể thay đổi họ tên của mình trong trường hợp có yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi bạn, cụ thể ở đây là cô ruột bạn. Thứ ba: Điều kiện bảo lãnh, định cư học tập ở Pháp Bạn đích thân nộp hồ sơ tại Đại sứ quán Pháp tại Hà nội. Không xem xét hồ sơ gửi qua đường bưu điện, fax hay thư điện tử. Điều kiện để sang Pháp bạn liên hệ với Đại sứ quán Pháp để biết cụ thể thông tin.
Tôi muốn cho bác ruột (chị gái của mẹ tôi) nhận con gái tôi làm con nuôi. Bác tôi là người Việt Nam định cư tại Nhật đã lâu. Xin cho tôi hỏi về điều kiện cần có của 2 bên, hồ sơ của 2 bên là cần những gì? Tôi có thể xin hồ sơ đó ở cơ quan nào? Xin cảm ơn.
Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi, nếu người Việt Nam định cư ở nước ngoài muốn nhận trẻ em có quan hệ họ hàng làm con nuôi thì người đó phải thuộc một trong các trường hợp là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của trẻ em. Như vậy, bác ruột của bạn không thể nhận con của bạn làm con nuôi vì không thuộc diện cô, cậu, dì, chú, bác ruột của trẻ em.
Có người muốn cho tôi bé gái sơ sinh, nhưng tôi không muốn cho người đó biết tôi ở đâu. Tôi muốn nhờ cơ quan có thẩm quyền không cho người đó biết địa chỉ nhà tôi khi tôi tới UBND làm thủ tục nhận nuôi vì sợ người đó biết sẽ có rắc rối về sau, như vậy có được không? Khi làm thủ tục nhận nuôi tôi đi tới UBND nào cũng được phải không?
Thứ nhất: Thủ tục nhận nuôi con nuôi Hiện nay, pháp luật về nuôi con nuôi không quy định về việc giấu địa chỉ của cha mẹ nuôi với cha mẹ đẻ của đứa trẻ. Tuy nhiên, thủ tục nhận nuôi con nuôi có quy định hồ sơ của người nhận nuôi con nuôi phải có địa chỉ, tình trạng chỗ ở (Điều 17, Luật Nuôi con nuôi 2010) Về việc giấu địa chỉ của cha mẹ nuôi với cha mẹ đẻ của đứa trẻ, khoản 1 Điều 9 Nghị định 19/2011/NĐ-CP hướng dẫn luật nuôi con nuôi quy định: “Khi kiểm tra hồ sơ, công chức tư pháp – hộ tịch phải nghiên cứu, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng và hoàn cảnh của những người liên quan. Trường hợp người được nhận làm con nuôi có cha mẹ đẻ, thì công chức tư pháp – hộ tịch kiểm tra việc cha mẹ đẻ có thỏa thuận với cha mẹ nuôi để giữ lại quyền, nghĩa vụ đối với con và cách thức thực hiện quyền, nghĩa vụ đó sau khi đã cho làm con nuôi.” Theo quy định này, quyền và nghĩa vụ đối với người con do cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi thỏa thuận, nếu cha mẹ nuôi của đứa trẻ có nguyện vọng về việc thăm nom hay cùng chăm sóc đứa trẻ cùng cha mẹ đẻ thì việc bạn muốn giấu địa chỉ sẽ không được chấp thuận. Mặt khác, người con nuôi được biết nguồn gốc của mình theo quy định tại điều 11 Luật nuôi con nuôi 2010. Thứ hai: Thẩm quyền đăng ký nhận nuôi con nuôi Khoản 1 điều 2 Nghị định 19/2011/NĐ-CP hướng dẫn luật nuôi con nuôi quy định việc nhận nuôi con nuôi phải được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi, cụ thể ở trường hợp này là ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em được nhận làm con nuôi đăng kí thường trú. Thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi được thực hiện theo quy định tại Điều 22 của Luật Nuôi con nuôi. Theo đó, khi đăng ký nuôi con nuôi, cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ, người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng và người được nhận làm con nuôi phải có mặt. Công chức tư pháp - hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký nuôi con nuôi và trao Giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho các bên.
Nuôi con nuôi là gì?
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận con nuôi (cha mẹ nuôi) với người được nhận làm con nuôi.Việc nuôi con nuôi phải được đăng ký tại Ủy ban nhân dân cơ sở nơi cư trú của người nuôi hoặc của con nuôi.
Chấm dứt việc nuôi con nuôi là gì?
Căn cứ pháp lý: Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 Chấm dứt việc nuôi con nuôi là Kết thúc các nghĩa vụ và quyền giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi. Chấm dứt việc nuôi con nuôi là biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con nuôi và cha mẹ nuôi. Chấm dứt việc nuôi con nuôi do Tòa án quyết định khi việc nuôi con nuôi không đạt được mục đích và ý nghĩa xã hội của nó, làm cho tình cảm giữa cha mẹ nuôi và con nuôi không còn nữa hoặc trên sự tự nguyện của cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên.
Đầu năm 2011 (khi em 15 tuổi) em được cô hiệu trưởng nơi em đang học nhận làm con nuôi. Vừa rồi mẹ nuôi em mất đột ngột. Bà có 2 căn nhà nằm cạnh nhau nhưng không để lại di chúc. Xin cho hỏi em có được hưởng di sản thừa kế cùng với người con đẻ duy nhất của bà hay không?
Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi năm 2010, để được pháp luật công nhận quan hệ mẹ nuôi, con nuôi, cần phải xem xét đối chiếu điều kiện của người được nhận là con nuôi (Điều 8), người nhận con nuôi (Điều 14) và phải thực hiện thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi (Điều 22). Vì mẹ nuôi của em mất mà không để lại di chúc, nên theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 675 Bộ luật Dân sự 2005, di sản của bà được chia thừa kế theo pháp luật. Theo quy định tại Điều 676 Bộ luật Dân sự 2005, hàng thừa kế thứ nhất gồm có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản như nhau. Như vậy, khi là con nuôi theo quy định của Luật Nuôi con nuôi năm 2010, em được quyền hưởng di sản thừa kế của mẹ nuôi em để lại theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005. Trước tiên, em có thể thỏa thuận với người con đẻ của mẹ nuôi em (nếu không còn ai khác thuộc hàng thừa kế thứ nhất) về việc phân chia di sản. Nếu không thỏa thuận được, em có thể nộp đơn đề nghị tại Tòa án nhân dân cấp Huyện nơi có bất động sản để yêu cầu giải quyết tranh chấp.
Ông bà H kết hôn đã lâu mà không có con nên có nhận A là trẻ bị bỏ rơi được nuôi dưỡng tại trung tâm bảo trợ xã hội làm con nuôi và đã đăng ký nhận nuôi con nuôi tại cơ quan có thẩm quyền. Tuy vợ chồng bà H nuôi dưỡng A như con ruột nhưng lớn lên, A lại ăn chơi đua đòi theo đám bạn xấu rồi nghiện hút ma túy. A luôn tìm mọi cách để trộm cắp tiền, tài sản của vợ chồng bà H làm cho kinh tế gia đình ngày càng kiệt quệ. Quá chán nản, ông bà muốn chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi với A. Đề nghị cho biết nguyện vọng trên của ông bà H có được giải quyết không? Cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết? Hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi như thế nào?
Điều 25 Luật Nuôi con nuôi quy định căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi như sau: “ Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây: 1. Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi; 2. Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi; 3. Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi; 4. Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật này.” Như vậy, theo quy định này thì vợ chồng bà H có quyền yêu cầu chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi giữa vợ chồng bà và A (thuộc trường hợp “con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi” quy định tại khoản 2 Điều 25 Luật Nuôi con nuôi). Về thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi được quy định tại Điều 10 Luật Nuôi con nuôi: “Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.” Tại Điều 27 Luật Nuôi con nuôi quy định hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi như sau: “1. Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Tòa án có hiệu lực pháp luật. 2. Trường hợp con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa án quyết định giao cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó. 3. Trường hợp con nuôi được giao cho cha mẹ đẻ thì các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đẻ đã chấm dứt theo quy định tại khoản 4 Điều 24 của Luật này được khôi phục. 4. Trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó; nếu con nuôi có công lao đóng góp vào khối tài sản chung của cha mẹ nuôi thì được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. 5. Con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình như trước khi được cho làm con nuôi.”
Tôi là một bà mẹ đơn thân, con trai tôi năm nay 3 tuổi. Tôi đã đồng ý cho con trai tôi làm con nuôi của một người khác, cụ thể là chị họ tôi. Cán bộ tư pháp có nói với tôi, khi tôi đã cho con đi làm con nuôi thì tôi không được nuôi dưỡng hay chăm sóc con tôi nữa. Vậy tôi xin hỏi điều đó có đúng không? Nguyện vọng của tôi là cả bố mẹ nuôi và mẹ đẻ cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho con.
Khoản 4 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về hệ quả của việc nuôi con nuôi như sau: "4. Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi". Như vậy, về nguyên tắc, kể từ thời điểm giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền và nghĩa vụ với con đẻ của mình. Do đó, việc cán bộ tư pháp trả lời với bạn về việc sau khi cho con đẻ của bạn làm con nuôi thì bạn không còn quyền và nghĩa vụ gì với con là hoàn toàn chính xác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong chính khoản 4 Điều 24 nêu trên, pháp luật cho phép các bên thỏa thuận với nhau thể hiện ở chỗ "trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác...". Điều đó có nghĩa là pháp luật cho phép cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi được thỏa thuận với nhau về việc, sau khi giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ được giữ lại một số hoặc toàn bộ quyền và nghĩa vụ đối với con của mình. Về phía bạn, bạn có nguyện vọng là việc cho con bạn làm con nuôi là để cả hai bên cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho bé, nên bạn hoàn toàn có thể thỏa thuận với bố mẹ nuôi của bé về việc mẹ đẻ vẫn có toàn bộ quyền và nghĩa vụ đối với con sau khi giao nhận con nuôi. Văn bản thỏa thuận này cần phải có chữ ký của cả hai bên, đồng thời nên được công chứng hoặc chứng thực. Văn bản thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi về việc cha mẹ đẻ vẫn còn toàn bộ quyền và nghĩa vụ đối với con được pháp luật thừa nhận và hoàn toàn tôn trọng. Nội dung thể hiện trong khoản 4 điều 24 nêu trên pháp luật bao giờ cũng đặt sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi lên hàng đầu, nếu như không có thỏa thuận gì thì mới áp dụng nguyên tắc sau khi giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền và nghĩa vụ đối với con.
Vợ chồng tôi năm 1990 có nhận một cháu 4 tuổi làm con nuôi. Vợ chồng tốt hết mực yêu thương và chăm sóc cho cháu từ đó cho đến khi cháu được 18 tuổi. Hiện cháu đã đi làm và kiếm được tiền. Vợ chồng tôi bỗng dưng lâm bệnh, hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Tôi muốn cháu cấp dưỡng cho vợ chồng tôi nhưng cháu từ chối. Cháu nói đã thành niên nên chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi, không có trách nhiệm với vợ chồng tôi. Cho tôi hỏi quan hệ giữa vợ chồng tôi và cháu có chấm dứt không? Tôi có quyền yêu cầu cháu cấp dưỡng cho vợ chồng tôi hay không?
Theo quy định tại Điều 24 của Luật Nuôi con nuôi : « 1. Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 2. Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi. Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó. 3. Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi. 4. Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi ». Như vậy, kể từ thời điểm giao nhận con nuôi, giữa vợ chồng bạn và con nuôi có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Theo quy định tại Điều 25 Luật Nuôi con nuôi quy định căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi như sau : « Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây: 1. Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi; 2. Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi; 3. Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi; 4. Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật này Điều 13 Luật nuôi con nuôi quy định các hành vi bị cấm: 1. Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em. 2. Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi. 3. Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi. 4. Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số. 5. Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước. 6. Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi. 7. Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.” Trường hợp vợ chồng bạn không vi phạm các hành vi cấm trên, không bị kết án về về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi đứa con nuôi của bạn không bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi thì quan hệ nuôi con nuôi chỉ chấm dứt khi con nuôi đã thành niên và vợ chồng bạn tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi. Vì vậy, trong trường hợp trên mặc dù người con nuôi đã thành niên muốn chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi nhưng chỉ trong trường hợp vợ chồng bạn tự nguyện đồng ý thì quan hệ giữa nuôi con nuôi giữa vợ chồng bạn và cháu mới chấm dứt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 107 và khoản 1 điều 119 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau: Điều 107. Nghĩa vụ cấp dưỡng 1. Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác. Điều 119. Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng 1. Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. Như vậy, do người con nuôi của bạn đã trưởng thành và có thu nhập, bạn có quyền yêu cầu Tòa án buộc người con nuôi cấp dưỡng cho vợ chồng bạn.
Chị gái tôi lấy chồng người Nga, anh chị lấy nhau đã lâu mà không có con nay chị muốn nhận con tôi làm con nuôi và đưa cháu sang Nga sinh sống. Xin hỏi trong trường hợp này thì chị gái tôi cần làm những thủ tục gì?
Theo điểm b khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi, chị gái của bạn có thể nhận con trai của bạn (là cháu ruột) làm con nuôi với điều kiện con trai chị dưới 18 tuổi, cả hai vợ chồng chị gái của bạn đều đồng ý nhận nuôi cháu. Vì chị gái của bạn đã kết hôn với người nước ngoài và định cư ở nước ngoài nên việc nhận cháu ruột làm con nuôi phải được phía cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho phép. Theo quy định tại Điều 31 và 32 Luật Nuôi con nuôi, hồ sơ nhận con nuôi gồm những giấy từ sau: - Đối với người nhận con nuôi: a) Đơn xin nhận con nuôi (theo mẫu); b) Bản sao Hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế; c) Văn bản cho phép được nhận con nuôi ở Việt Nam; d) Bản điều tra về tâm lý, gia đình (có giá trị sử dụng nếu được cấp chưa quá 12 tháng tính đến này nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi); đ) Văn bản xác nhận tình trạng sức khoẻ (có giá trị sử dụng nếu được cấp chưa quá 12 tháng tính đến này nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi); e) Văn bản xác nhận thu nhập và tài sản (có giá trị sử dụng nếu được cấp chưa quá 12 tháng tính đến này nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi); g) Phiếu lý lịch tư pháp (có giá trị sử dụng nếu được cấp chưa quá 12 tháng tính đến này nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi); h) Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân; i) Giấy tờ chứng minh bạn và người nhận con nuôi là hai chị em ruột (có thể là giấy khai sinh của bạn và chị gái bạn). Các giấy tờ nêu từ điểm b đến điểm h do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người nhận con nuôi thường trú lập, cấp hoặc xác nhận. Hồ sơ của người nhận con nuôi được hợp pháp hóa lãnh sự và dịch sang tiếng Việt và lập thành 02 bộ; Chị gái của bạn có thể trực tiếp nộp hồ sơ cho Cục Con nuôi thuộc Bộ Tư pháp hoặc ủy quyền cho người thân nộp hồ sơ. - Đối với trẻ em: a) Giấy khai sinh; b) Giấy khám sức khoẻ do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; c) Hai ảnh toàn thân, nhìn thẳng chụp không quá 06 tháng; d) Ý kiến đồng ý cha mẹ đẻ về việc cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài. Hồ sơ của trẻ em được nộp cùng với hồ sơ của người nhận con nuôi.
Luật sư ơi, có thể tư vấn giúp em việc nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài được không ạ, một người Việt Nam định cư ở nước ngoài ( Việt Kiều) Đức, có nhu cầu nhận cháu gái mình làm con nuôi. Có 1 chỗ trong thông tư hướng dẫn thủ tục nuôi con nuôi có quy định, một số giấy tờ như VB chp phép được nhận con nuôi ở VN hay Bản điều tra tâm lý gia đình... đòi hỏi phải do cơ quan có thẩm quyền nơi người nhận con nuôi thực hiện. Vậy cơ quan đó là cơ quan nào ạ, có phải là Sở tư pháp bên Đức, giống như Việt Nam không ạ! Em chân thành cám ơn nhiều!
Mỗi quốc gia có một cơ quan quản lý riêng, cũng như có những quy định riêng, nhưng ở Đức vấn đề hộ tịch hình như là Tòa án giải quyết chứ không phải sở tư pháp. Để biết chính xác quy định thì em nên nói người VK Đức nhờ ls bên đó tư vấn và chuẩn bị thủ tục. Và toàn bộ giấy tờ của Đức thì em nên hợp pháp hóa tại bên đó, chứ về VN đôi lúc không hợp pháp hóa được, do hồ sơ hộ tịch của Đức không phải bản chính như ở VN mà chỉ là trích lục sổ bộ
Tôi có một đứa cháu gọi bằng dì vừa sinh xong, nay cháu có nguyện vọng muốn tôi nhận con của cháu làm con nuôi thì có được không?
Chị có thể nhận cháu làm con nuôi nếu đáp ứng đủ điều kiện theo quy định pháp luật. HỒ sơ gồm lý lịch tư pháp (xin ở sở tư pháp), đơn xin con theo mẫu, giấy đồng ý cho con của cha và mẹ trẻ, giấy tờ liên quan chứng minh về thu nhập. HỒ sơ nộp tại UBND xã phường nơi người trẻ có hộ khẩu
Một cặp vợ chồng (Vợ là người Việt Nam định cư tại Mỹ và có Quốc tịch Mỹ - Chồng người Mỹ) muốn nhận một đứa con trai (4 tuổi, có hộ khẩu và giấy khai sinh tại Việt Nam đầy đủ) làm con nuôi và muốn đưa cháu qua Mỹ để sinh sống, như vậy thì điều kiện và thủ tục như thế nào để nhận con nuôi trong trường hợp này,
Hiện tại giữa Mỹ và VN chưa ký lại hiêp ước song phuong về con nuôi, nên những trường hợp đích danh như thế này thì bạn cần liên hệ nộp trực tiếp tại cục con nuôi và đại sứ quán mỹ tại VN để xem xét Nếu đứa trẻ và người Mỹ gốc Việt có quan hệ huyết thống thì có thể gởi hồ sơ cho cục di trú Mỹ và cục con nuôi VN để xem xét, bởi chương trình xin con nuôi đích danh đã tạm ngùng hơn 5 năm nay mà chưa tái tiếp tục ký hiệp định Song phương về con nuôi
Em tôi 20 năm trước được bà nhận làm con nuôi do không có con. Sau khi chồng bà chết, bà làm di chúc và chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho em tôi. Em tôi đã lấy vợ và có 2 con. Sau khi bị tai nạn chết. Em tôi không kịp di chúc lại cho vợ con số tài sản trên. Đến nay bà yêu cầu con dâu phải trả lại quyền sử dụng đất mảnh đất đã sang tên cho em tôi. Tôi muốn hỏi, quyền thừa kế tài sản của em tôi là mảnh đất trên thuộc về những ai và được quy định như thế nào. Bà ấy không có anh chị em, ông bố chồng đã chết cũng vậy. Mong văn phòng tư vấn giúp em tôi. Chân thành cám ơn
Theo như nội dung bạn trình bày thì có một điều rất vô lý là: Mẹ nuôi làm di chúc chuyển quyền sử dụng đất cho con nuôi (là em bạn) nhưng mẹ nuôi còn sống sờ sờ ra đó thì làm sao di chúc đó có hiệu lực mà em trai bạn lại đi sang tên được miếng đất??? Theo quy định thì dí chúc chỉ có hiệu lực pháp luật kể tư thời điểm mở thừa kế (thời điểm người để lại di sản qua đời). Như vậy, trong trường hợp này là mẹ nuôi đã cho tặng con nuôi quyền sử dụng đất và nay con nuôi qua đời lại muốn đòi lại là ko được. Quyền thừa kế miếng đất này sẽ được giải quyết chia cho các đồng thừa kế của người con nuôi theo quy định của pháp luật.
Tôi xin tư vấn về việc nhận con nuôi: Gia đình tôi nhận nuôi một bé ngay khi cháu mới sinh đến nay đã được 18 tháng.  Bố và mẹ đẻ của cháu đã không sống cùng nhau ngay từ khi mẹ cháu mang thai cháu. Khi sinh cháu ra do không có điều kiện nuôi dưỡng nên đã cho gia đình tôi nhận làm con nuôi. Khi sinh cháu, gia đình mẹ đẻ cháu đã làm giấy chứng sinh tại bệnh viện và đã ghi cả tên bố và mẹ đẻ của cháu. Bố đẻ của cháu không chấp nhận cho cháu đi làm con nuôi nhưng cũng không có trách nhiệm với cháu. Nay bố mẹ đẻ của cháu đã ly hôn. Quyền nuôi con thuộc về mẹ cháu ạ. Khi gia đình tôi làm thủ tục nhận con nuôi thì chính quyền yêu cầu có sự đồng ý của bố cháu nên mọi giấy tờ thủ tục vẫn chưa được hoàn thành. Vậy tôi muốn hỏi trong trường hợp này gia đình tôi làm sao có thể hoàn thành thủ tục nhận con nuôi ạ? (chỉ có sự đồng ý của mẹ đẻ cháu còn bố đẻ cháu thì không chấp nhận). Rất mong nhận được sự tư vấn của luật sư ạ! Tôi xin chân thành cảm ơn!
Chào bạn! Căn cứ vào Điều 21 Luật nuôi con nuôi 2010 thì: - Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi; ..........; trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó. - Sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Như vậy, theo quy định trên thì trường hợp này nếu không được sự đồng ý của bố đứa trẻ về việc cho con làm con nuôi thì gia đình bạn không thể thực hiện thủ tục đăng ký nuôi con nuôi được. Mặc dù, bố mẹ đẻ của em bé đã ly hôn nhưng theo quy định của Luật hôn nhan và gia đình thì sau khi ly hôn bố mẹ vẫn có đầy đủ quyền và nghĩa vụ với con của mình cho dù đứa trẻ được giao cho người cha hoặc người mẹ chăm sóc. Chính vì thế, hiện tại để nhận đứa trẻ trên làm con nuôi gia đình bạn chỉ có thể thuyết phục để được sự đồng ý của bố đẻ đứa trẻ. Trân trọng!
Chào Luật sư Em đang có người bà con bên ĐỨc muốn nhận con nuôi là công dân việt nam ( trường hợp nhận đích danh: bác nhận cháu ruột). Hồ sơ e tìm hiệu thì bao gồm 1.1. Đơn xin nhận con nuôi 1.2. Bản sao hộ chiếu. 1.3. Giấy chứng nhận con nuôi của Đức 1.4. Văn bản xác nhận tình trạng sức khỏe. 1.5. Văn bản xác nhận thu nhập và tài sản. 1.6. Phiếu lý lịch tư pháp. 1.7. Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân. 1.8 Bản điều tra tâm lý gia đình Hồ sơ gia đình đã hoàn thành được gần hết. Nhưng còn mục 1.8 gia đình em đang gặp khó khăn vì ko biết mẫu đơn này nhưu thế nào? cơ quan nào cấp? Các luật sư có thể cho em biết mẫu điều tra này gồm những nội dung gì? cơ quan nào cấp? mẫu điều tra (nếu có) như thế nào? cảm ơn luật sư
Chào bạn! Để thực hiện thủ tục nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoai bạn chuẩn bị các hồ sơ theo quy định tại Điều 31 Luật nuôi con nuôi năm 2010. Trong đó, Bản điều tra về tâm lý, gia đình, xã hội của người xin nhận con nuôi do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú cấp. (cụ thể trường hợp này là ở Đức) Để biết rõ nội dung của Bản điều tra về tâm lý, gia đình, xã hội bạn đến trực tiếp Sở tư pháp nơi nhận con nuôi để được hướng dẫn cụ thể/ Trân trọng!
Ba tôi có 4 người chị và 1 người em trai. Khi bà nội tôi mất có viết di chúc để lại nhà cho ba và chú. Trong thời gian chú tôi ra nước ngoài làm việc và sinh sống, chủ nhà ở nước ngoài về lấy lại nhà. Nhờ sự hỗ trợ từ phía công ty ba tôi công tác Nhà nước đã cấp cho gia đình tôi một căn nhà mới. Ba má tôi đã góp tiền để hóa giá nhà và giấy tờ nhà đứng tên ba má tôi. Sau đó ba tôi bán căn nhà này và mua một căn mới ở chỗ khác. Ba chia đôi nhà một nửa để ở và một nửa làm nhà trọ. Ba có hứa với chú hiện đang sống ở nước ngoài bên nhà trọ là của chú nhưng không có giấy tờ xác nhận. Ngoài ba đứa con ruột, ba tôi có 2 người con ngoài giá thú (đang mang họ mẹ, giấy khai sinh không có tên ba tôi). Trước khi mất ba tôi có nói đã lo đầy đủ cho gia đình họ bao gồm nhà cửa và tiền bạc. Vậy những người con ngoài giá thú của ba tôi có thể đến đòi chia tài sản của ba dành cho mẹ con chúng tôi? Tôi phải có nghĩa vụ giao nửa căn nhà cho chú như ba nói hoặc khi bán nhà phải phân chia số tiền bán được như thế nào?
Hiện nay, theo quy định pháp luật hiện hành thì Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa con trong giá thú và con ngoài giá thú. Do đó, nếu ba bạn mất mà không để lại di chúc thì di sản sẽ được chia thừa kế theo pháp luật. Hàng thừa kế thứ nhất gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Những người con cùng cha khác mẹ với bạn có quyền hưởng di sản mà ba bạn để lại nếu họ có giấy tờ hoặc quyết định, bản án của cơ quan có thẩm quyền chứng minh rằng họ là con của ba bạn ngoại trừ trường hợp những người con này từ chối nhận di sản hoặc không được quyền hưởng di sản theo quy định tại điều 642, 643 BLDS 2005. Ngoài ra, theo thông tin mà bạn cung cấp, việc ba bạn hứa cho chú bạn một nửa căn nhà lúc còn sống, không có giấy tờ xác nhận và giấy tờ nhà hoàn toàn không có tên của chú bạn thì về mặt pháp luật chú bạn không có cơ sở để đòi lại nửa căn nhà đó. Tuy nhiên về mặt tình cảm gia đình thì các bạn nên thực hiện lời hứa của cha bạn với chú của bạn. //CONTENT
Tôi và anh Triệu Đức Huynh sinh sống như vợ chồng từ năm 2002 đến năm 2006 nhưng không đăng ký hết hôn, chúng tôi sinh được hai người con là Nguyễn Lý Đức Toàn và Đinh Kim Quý. Ngày 13/3/2013, anh Huynh qua đời do tai nạn không để lại di chúc. Hỏi hai con của tôi là cháu Toàn và cháu Quý có được hưởng di sản thừa kế của anh Huynh không?
Pháp luật dân sự không phân biệt quyền thừa kế theo pháp luật của con trong giá thú hay ngoài giá thú đối với di sản của cha. Vì vậy, nếu chị có đầy đủ chứng cứ để chứng minh hai người con của chị là con của anh Triệu Đức Huynh thì dù chị và anh Huynh không đăng ký kết hôn thì hai con chị vẫn được pháp luật bảo vệ quyền được hưởng thừa kế. Khi đó, con của chị được coi là con đẻ của chồng chị. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 676 – Bộ luật dân sự năm 2005 về hàng thừa kế theo pháp luật thì con chị thuộc diện hàng thừa kế thứ nhất. Trong câu hỏi chị không nêu rõ Giấy khai sinh của con chị có ghi về phần cha của hai con chị hay không nên có thể xảy ra một trong hai trường hợp như sau: Nếu giấy khai sinh của các con chị ghi rõ phần cha: Trong trường hợp này, mặc dù chị và anh Huynh không phải là vợ chồng nhưng cha cháu bé vẫn được pháp luật thừa nhận. Theo đó, khi cha chết thì các con sẽ được hưởng thừa kế tài sản theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật. Trường hợp này cha cháu bé chết mà không để lại di chúc thì di sản sẽ được phân chia theo pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 676 Bộ Luật Dân sự 2005, hàng thừa kế thứ nhất bao gồm “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Khi đó, các con chị sẽ được hưởng một phần di sản của cha để lại (những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần thừa kế bằng nhau). Nếu giấy khai sinh của cháu bé bỏ trống phần cha: Trong trường hợp này cha cháu bé chưa được pháp luật thừa nhận là cha đẻ, mặc dù các con chị có thể được phía bên nội thừa nhận hay không. Theo quy định tại khoản 1 Điều 65 – Luật Hôn nhân và Gia đình, “con có quyền xin nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết”. Do vậy, chị hoặc con chị (trường hợp con chị đã đủ 18 tuổi) cần phải tiến hành các thủ tục nhận cha trước khi làm thủ tục để hưởng thừa kế. Về thủ tục xin nhận cha cho các con chị cần lưu ý: Theo quy định tại Điều 34 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP và khoản 9 Điều 1 Nghị định số 06/2012/NĐ-CP, để làm thủ tục nhận cha cho con, chị phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định). Kèm theo Tờ khai phải xuất trình: giấy khai sinh (bản chính hoặc bản sao) của con; các giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác để chứng minh quan hệ cha con (nếu có). Đối với trường hợp có tranh chấp giữa những người có quyền và lợi ích liên quan đến việc nhận cha – con (ví dụ gia đình anh Huynh không đồng ý) chị có quyền gửi đơn đến Tòa án yêu cầu xác định quan hệ cha, con. Trong trường hợp nếu xét thấy cần thiết chị có yêu cầu thì Tòa án sẽ tiến hành trưng cầu giám định ADN để có căn cứ khoa học khi xét xử. Đồng thời, cần chủ động thu thập và chuẩn bị những chứng cứ để chứng minh được là có quan hệ cha con để Tòa án có thêm căn cứ giải quyết vụ việc. Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là TAND cấp huyện nơi người cha cư trú trước lúc chết hoặc nơi cư trú của chị và các con (theo khoản 4 Điều 27, điểm a khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004). Như vậy, sau khi hoàn tất thủ tục nhận cha, cháu bé sẽ được hưởng di sản thừa kế của cha cháu để lại bằng với các đồng thừa kế khác vì thừa kế theo pháp luật, những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần thừa kế bằng nhau.
Năm 2003 khi ba tôi đi công tác ở Huế 3 tháng, trong thời gian đó ông gặp gỡ bà D và hai người đã có với nhau một người con. Nhưng ba mẹ tôi không ly hôn. Cuối năm 2013, bố tôi mất, không để lại di chúc Người con riêng ngoài giá thú của ba tôi và bà D có được hưởng thừa kế không?
Hiện nay, Nhà nước và xã hội không có sự phân biệt đối xử giữa con trong giá thú và con ngoài giá thú. Do đó, nếu ba bạn mất mà không để lại di chúc thì di sản sẽ được chia thừa kế theo pháp luật. Hàng thừa kế thứ nhất gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết (Điều 676 Bộ Luật dân sự 2005). Theo đó, những người con cùng cha khác mẹ với bạn có quyền hưởng di sản mà ba bạn để lại nếu họ có giấy tờ hoặc quyết định, bản án của cơ quan có thẩm quyền chứng minh rằng họ là con của ba bạn ngoại trừ trường hợp những người con này từ chối nhận di sản hoặc không được quyền hưởng di sản theo quy định tại điều 642, 643 BLDS 2005. Bà D và ba bạn không có quan hệ hôn nhân (không phải vợ chồng), do đó, bà D không thuộc diện thừa kế. Điều này có nghĩa là bà D không có quyền hưởng thừa kế tài sản ba bạn để lại. Như vậy, khi ba bạn chết không để lại di chúc thì người con riêng ngoài giá thú của ba bạn được hưởng thừa kế, có quyền lợi và nghĩa vụ như bạn, còn bà D không thuộc đối tượng được hưởng thừa kế.
Cháu chào luật sư! Cuộc sống hôn nhân của ba mẹ cháu đang rất căng thẳng. Đã nhiều lần giải quyết nhưng không thành. Có một số lần mâu thuẫn trở thành bạo lực gia đình. Chồng không tôn trọng vợ, gia đình bên vợ. Do tuổi tác vợ chồng cách xa nhau. Trước khi cưới, chồng đã có một đời vợ và một đứa con gái riêng, nay đã lớn. Sau khi kết hôn thì vợ phát hiện ra chồng còn có thêm 2 đứa con riêng ngoài giá thú nữa. Nên mâu thuẫn càng khó giải quyết. Nay cả 2 đi đến ly hôn. Việc chia tài sản cũng khó khăn. Tài sản riêng trước khi kết hôn của chồng chỉ có 1 căn nhà cấp 4. Sau này, cả hai vợ chồng cùng nhau kinh doanh mua bán, mua thêm 4 căn nhà khác, và căn nhà riêng của chồng thì xây dựng thành 1 khách sạn. Tất cả tài sản chung đều đứng tên chồng. 2 năm gần đây, do kinh tế đã ổn định, đủ nuôi các con, nên cả 2 vợ chồng ngừng việc kinh doanh, chỉ còn khách sạn hoạt động hằng ngày. Vợ ở nhà làm nội trợ, và chồng thì chối bỏ toàn bộ công sức của vợ, nói rằng toàn bộ tài sản là do sự nghiệp nhà chồng làm nên. Cho cháu hỏi, liệu khi ly hôn, số tài sản phát sinh sau khi lấy nhau có được chia đôi không ạ? Nếu người vợ ko đưa ra được các chứng cứ là mình có công làm nên khối tài sản đó, liệu có được chia tài sản không? Và những người còn riêng, con ngoài giá thú đã quá tuổi vị thành niên thì có quyền hưởng thừa kế tài sản chung như con chung không ạ?
1. Nếu ba mẹ bạn có đăng ký kết hôn hợp pháp thì những tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân sẽ là tài sản chung của ba mẹ bạn dù mình ba bạn đứng tên. Nếu như những gì bạn trình bày là đúng thì tài sản riêng của ba bạn chỉ có 1 căn nhà cấp 4. Sau khi kết hôn với mẹ bạn, ba mẹ bạn mua thêm 4 căn nhà khác thì 4 căn nhà này là tài sản chung của ba mẹ bạn. Việc ba mẹ bạn xây khách sạn trên mảnh đất có trước hôn nhân của ba bạn thì phần tài sản trên đất tức là khách sạn sẽ là tài sản chung của ba mẹ bạn, còn phần đất là tài sản riêng của ba bạn. Theo quy định tại khoản 2 Điều 59 Luật hôn nhân gia đinh 2014 về Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn: "Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây: a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng". 2. Vấn đề thừa kế tài sản chỉ đặt ra khi người có tài sản đã mất. Nếu các người con đã đủ 18 tuổi thì ba mẹ không có nghĩa vụ cấp dưỡng trừ trường hợp con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Ông nội tôi có 3 người con, nay ông mất để lại: ĐẤT:  +/ Căn nhà 70m2 (có trong di chúc, chia làm 3 phần đều nhau)  +/ Căn nhà 40m2 (không có trong di chúc, sổ đỏ đứng tên cả ông, bố và mẹ tôi) vậy xin cho hỏi +/ Khi chia căn nhà 70m2 thủ tục cần những gì  +/ Căn nhà 40m2 có phải sẽ chia làm mấy phần? Nếu bố mẹ tôi muốn trả tiền cho 2 người con còn lại để mua phần của 2 người con đó, và làm chủ sở hữu toàn bộ căn nhà 40m2 thì có cần phải công chứng của chính quyền địa phương không hay chỉ cần chữ ký làm chứng của 1 người thứ 3 (Ví dụ: tổ trưởng dân phố)? SỔ TIẾT KIỆM  +/ Ông tôi để lại sổ tiết kiệm 7 tỷ nhưng không đề cập tới trong di chúc. 3 người con của ông khi muốn rút phải cần những giấy tờ, chứng từ gì? Nếu giấy khai sinh của các con đã bị mất thì có thể thay bằng giấy tờ gì khác không hay phải đi xin xác nhận lại giấy khai sinh?    Tôi xin chân thành cảm ơn
Ông/bà cần khai nhận di sản thừa kế đối với căn nhà 70m2 theo di chúc. Phần nhà 40m2 làm thủ tục thỏa thuận phân chia di sản thừa kế cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: Cha,mẹ; vợ/chồng; con của người chết. Cả 2 thủ tục này có thể gộp làm 1 nếu những người có tên trong di chúc và những người thuộc hàng thừa kế của người chết là một. Tuy nhiên, phải xác định phần của người chết trong khối tài sản này. Việc phân chia, khai nhận này các bên tự thỏa thuận với nhau. Về thủ tục, giấy tờ cần chuẩn bị: Giấy Chứng tử của người chết, giấy khai sinh các con, giấy tờ về nhà đất, di chúc. Việc phân chia, khai nhân di sản buộc phải công chứng hoặc chứng thực Số tiền gửi tiết kiệm những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người chết chỉ được nhận sau khi khai nhận di sản thừa kế.
Luật sư cho tôi hỏi, tôi đã kết hôn. Mẹ tôi đang có thẻ tiết kiệm ở ngân hàng, nay muốn tặng riêng cho tôi làm tài sản riêng. Vậy thủ tục phải làm như thế nào? Có phải đi công chứng như tặng cho QSD đất hay không? Sau khi tặng cho, tôi tiếp tục gởi lại thẻ tiết kiệm và phải thay thẻ mới qua tên tôi thì tiền tiết kiệm đó có bị xem là tài sản chung của vợ chồng không. Tôi không muốn vợ chồng phải làm giấy tờ xác nhận tài sản riêng. Xin LS tư vấn cho ạ. Cảm ơn luật sư.
Chào bạn, Sổ (thẻ) tiết kiệm thực chất là tiền nên việc tặng cho sổ chính là tặng cho tiền (ngân hàng không có thủ tục chuyển tiếp tên trong sổ tiết kiệm) và việc này không nhất thiết phải công chứng. Đơn giản là mẹ bạn hoặc bạn gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng (bạn ký giấy tờ). Bạn muốn lập bằng chứng về quyền sở hữu riêng đối với số tiền này thì bạn có thể yêu cầu công chứng, tuy nhiên trong thực tế khi phát sinh tranh chấp cũng không thể loại trừ hoàn toàn rủi ro bằng việc có công chứng. Trân trọng!