Question
stringlengths
0
11.9k
Answer
stringlengths
0
26.8k
Tôi có trường hợp như thế này: Gia đình tôi có 5 anh chị em khi cha mẹ tôi mất có để lại 01 căn nhà, anh em tất cả đều đã ở riêng, chỉ có vợ chồng người em út sống chung với cha mẹ và vẫn ở căn nhà tổ từ đó đến giờ.  Nhưng nay người con của ông anh thứ 3 đòi về căn nhà này ở, thậm chí nó còn đòi bán nhà để chia vì cha mẹ nó đều đã mất. Vậy xin cho tôi hỏi thằng cháu ngỗ ngược này nó có được quyền như thế không, thật sự anh em còn lại không ai muốn bán căn nhà tổ này, nhưng nếu đưa tiền cho nó theo đúng phần cha nó được hưởng thì anh em không đủ tiền. Căn nhà hiện trị giá khoảng 14 tỷ. Xin thành thật cảm ơn quý luật sư!
Căn nhà như bạn trình bày là di sản, nếu không có di chúc của bố mẹ bạn thì căn nhà di sản chưa được chia của 5 anh em bạn. Con của người anh thứ 3 có được quyền đòi chia tài sản này hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Nếu người anh thứ 3 đã chết phải xem xét có di chúc để lại hay không? có thuộc trường hợp bị tước quyền thừa kế hay không? Phần tài sản của người anh thứ 3 thuộc về hàng thừa kế thứ nhất bao gồm những ai? 4 người con còn sống có quyền xem xét đưa ra phương án phù hợp với thực tế, với nguyện vọng chung của mọi người đảm bảo các yếu tố tình cảm gia đình và phù hợp quy định pháp luật. Như vậy, người cháu chưa có quyền đối với di sản là căn nhà trên, nếu không đồng ý với cách giải quyết của 4 đồng thừa kế có thể khởi kiện ra toà án quyền đối với tài sản còn chia tài sản như thế nào, toà án sẽ căn cứ vào nguyện vọng chung và thực tế để giải quyết.
Kính thưa luật sư! Tôi Tên Tố Uyên ở Bến Tre có một số thắc mắc xin luật sư tư vấn giúp em: Bố em mất năm 2005 không để lại di chúc, bố tổng cộng khoảng 14.000m2 đất và chỉ mới được cấp giấy chứng nhận 1900m2 còn các thửa khác chưa có sổ. Trong các thửa đất đó người anh cất nhà kiên cố trên một thửa và làm một thửa giành riêng cho mình, người chị nói là thuê của mẹ một thửa (vì sau khi bố mất mẹ quản lí các thửa đất nhưng không có quyền chia cho con cũng không có quyền làm giấy chứng nhận). Do sức khỏe mẹ đã yếu muốn chia cho các con nhưng các anh chị không đồng ý do đó má đưa ra tòa và khi đó mẹ là nguyên đơn, người anh và người chị thuê đất là bị đơn. Tôi xin luật sư tư vấn giúp tôi các vấn như sau : 1. Mẹ tôi là nguyên đơn xin chia tài sản chung vợ chồng và người anh người chị là bị đơn như vậy có đúng hay không? 2.Các anh chị cố tình không có mặt khi tòa án tiến hành định giá đất ( đã hai lần vắng mặt) thì vụ án có tiến hành xử lý được hay không? 3. Vì chưa có sổ đỏ và cũng chưa được công nhận phần đất nào là của mình vậy mẹ tôi làm sao lập được di chúc và được công nhận là hợp pháp? 4. Khi được chia phần của mẹ tôi là được bao nhiêu ? Mẹ tôi hiện tại sức khỏe bà đã yếu ( 78 tuổi ) kính mong luật sư tư vấn và hướng dẫn cách xử lý tốt nhất cho bà an tâm lúc tổi già .
1.Mẹ em nên khởi kiện chia thừa kế vì bố em mất 2005, thời hiệu khởi kiện chia thừa kế vẫn còn. Khi chia thừa kế, tòa sẽ tính toán để biết tỷ phần quyền sử dụng đất của mẹ có bao nhiêu m2 trong khối tài sản chung của vợ chồng. Khi mẹ là nguyên đơn, hai anh chị của em đang chiếm giữ đất sẽ là bị đơn, những người có quyền thừa kế khác nếu có yêu cầu chia thừa kế sẽ là người có quyền lợi liên quan. 2. Việc các anh chị không có mặt, cố tình gây khó khăn cho Tòa, Tòa sẽ có cách giải quyết và xử vắng mặt họ. Tuy nhiên như vậy thì vụ việc sẽ kéo dài và vất vả cho các bên và cho cả Tòa án. 3. Đất chưa có sổ đỏ vẫn làm di chúc được. Mẹ em có bất cứ một giấy tờ nào đó chứng minh quyền đã sử dụng các thửa đất đó thì lấy đó làm căn cứ lập di chúc. Cách tốt nhất là mẹ em đến tổ chức hành nghề công chứng để lập di chúc, tại đây họ sẽ tư vấn và lập di chúc cho mẹ một cách an toàn nhất. 4. Về nguyên tắc đất của bố mẹ được chia đôi, mỗi người 1/2. Phần của bố sẽ chia cho những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm ông bà nôi em, các anh chị em của em và mẹ em, mỗi người được một phần bằng nhau . Nếu ông bà nội đã chết trước bố thì không được hưởng thừa kế.
Như tiêu đề tôi cần tư của luật sư về thừa kế. Bố tôi có 5 người con ,2 trai, 3 gái, trong đó một người anh trai thứ tư đã mất. Bố tôi đứng tên chủ sở hữu căn nhà hiện tôi đang ở và bố tôi đã mất. Hiện nay người chị thứ năm đòi tranh chấp phần tài sản của mình trong căn nhà và yêu cầu bán nhà để chia làm 4, nhưng nhà này ba chị em tôi quyết định để thờ cúng ông bà chứ không bán. Vậy nếu theo luật thì người chị thứ năm của tôi có quyền đơn phương kiện ra tòa bắt buộc phải bán căn nhà này hay không (dù cả ba người còn lại không chấp nhận bán). Xin cảm ơn luật sư
- Theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 Bộ luật dân sự thì con có quyền hưởng thừa kế của cha mẹ, cha mẹ có quyền hưởng thừa kế của con, vợ chồng có quyền hưởng thừa kế của nhau theo pháp luật. Do vậy, nếu bố bạn qua đời không để lại di chúc hoặc di chúc không hợp pháp thì phần di sản của bố bạn sẽ thuộc về mẹ bạn, ông bà nội (nếu còn sống) và 5 anh chị em bạn. - Để định đoạt khối di sản đó thì phải có sự đồng thuận của tất cả những người thừa kế. Nếu không thống nhất được việc phân chia di sản thừa kế thì một trong các thừa kế của bố bạn có quyền khởi kiện đến Tòa án để yêu cầu chia thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về thừa kế là 10 năm kể từ ngày người có di sản (bố bạn) chết. - Bạn chưa nói đến thông tin về mẹ bạn và thời diểm bố bạn qua đời. Nếu bố bạn chết chưa quá 10 năm thì chị bạn có quyền khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đối với ngôi nhà đó.
Gia đình tôi đang tranh chấp về nhà cửa, nhờ luật sư tư vấn dùm! Ba mẹ tôi có mua 1 căn nhà, co 3 người con. Khi mẹ tôi mất. Cha tái hôn, có 1 người con (cùng cha khác mẹ). Sau này ba tôi mất năm 2009, căn nhà ba tôi đứng tên Hiện nay người mẹ kế đòi chia tài sản căn nhà ấy Xin hỏi luật sư nên chia thế nào?
- Theo thông tin bạn nêu thì ngôi nhà đó là di sản thừa kế do cha mẹ bạn để lại. Nếu cha bạn không để lại di chúc thì 1/2 giá trị ngôi nhà đó là di sản của cha bạn sẽ thuộc về các người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại Điểm a, khoản 1, Điều 676 Bộ luật dân sự (ông bà nội bạn; anh, chị em bạn và bà vợ 2 của cha bạn). Cha bạn chết năm 2009 nên thời hiệu khởi kiện tranh chấp về quyền thừa kế là 10 năm (2009 - 2019). Trong thời hạn này thì bà mẹ kế của bạn có quyền khởi kiện để yêu cầu tòa án chia thừa kế đối với phần di sản của cha bạn (trừ trường hợp hôn nhân của bà ấy và bố bạn không hợp pháp). Ngoài ra, bà hai còn được chia phần tài sản mà bà ấy tạo lập, phát sinh trong thời gian chung sống với cha bạn (nếu có). Do vậy, gia đình bạn nên thỏa thuận với nhau về việc phân chia giá trị phần thừa kế của cha bạn tránh tranh chấp khiến tòa án phải giải quyết.
Em tên Lê Phú Thà (sn:1990). Em có câu hòi như sau: Nhà nội em có 12 người con, Ông nội em mất năm 2011không để lại di chúc, để lại 1 căn nhà và một mẩu đất ruộng. Hiện tại các chú của em đang tranh nhau chia tài sản mặc dù bà nội còn sống. Bác thứ 5 đã cất nhà trên miến đất của nội em cho con trai ông ấy khi chua dược sự đồng ý của các bác, cô em. Vậy em cho em hỏi việc Bác 5 em cất nhà cho con trai là dúng pháp luật không?, Bà nội em còn sống thì có thể chi tài sản dược không?, Em có quyền thay Ba em khiếu nại về quyền thừ kế được không? Em xin chân thành cảm ơn.
Ông nội bạn mất năm 2011 và không để lại di chúc thì theo quy định pháp luật di sản thừa kế của ông nội bạn sẽ được chia cho hàng thừa kế thứ 1 gồm: bà nội bạn và 12 người con. Mỗi người hưởng phần bằng nhau Di sản thừa kế của ông nội bạn là 1/2 tổng tài sản trong khối tài sản chung giữa ông nội bạn và bà nội bạn. Vì vậy, cho dù bà nội bạn còn sống thì vẫn chia thừa kế phần của ông nội bạn được. Việc bác thứ 5 bạn tự ý cất nhà cho con trên phần của ông, bà nội bạn là không đúng quy định pháp luật. Các đồng thừa kế có quyền tranh chấp
Xin hỏi luật sư:          Cha chúng tôi qua đời đã 5 năm, mẹ qua đời 11 năm. Có để lại cho 6 anh em chúng tôi tài sản gồm: 1/ 1 căn nhà đã được 6 anh em chúng tôi thống nhất để cho 1 người đại diện đứng tên, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. 2/ 1 lô đất  200m2  trên đó có 1 căn nhà  và cây ăn trái, có giấy tờ của chế độ cũ cấp, chưa làm sổ được vì có 1 người không đồng ý cử người đại diện đứng tên như căn nhà trên. Chúng tôi xin hỏi : 1/  Có thể làm đơn khởi kiện lên Tòa án nhờ Tòa định giá Căn nhà và lô đất để chia không? 2/  Nếu định giá thì Tòa án hay cơ quan nào có thẩm quyền để định giá, chi phí định giá và án phí được tính như thế nào? 3/  Căn cứ vào giá trị tài sản định giá, trong 5/6 anh em chúng tôi đề nghị chia  làm thành 7 phần,      Trong đó: 6  phần chia cho 6 người còn một phần để cất lại nhà thờ cúng cha mẹ, như thế được không? Nếu người thứ 6 không đồng ý chia thêm phần thứ 7 đề nghị tòa giải quyết được không? 4/  Trong 6 anh em chúng tôi có một người không thỏa thuận được các giải pháp trên, vậy sau khi Tòa án định giá tài sản, 5 anh  em còn lại chung tiền đưa cho người  này , để 5 anh em được trọn quyền tài sản được không? Nếu người thứ 6 này không chịu nhận thì phải làm thế nào?   Xin quí Luật sư tư vấn giúp cho chúng tôi. Xin chân thành cám ơn.                                                                                                                               Nguyễn Hữu
Đối với trường hợp 1 căn nhà đã có chủ quyền nên có thể khởi kiện tại Tòa án, thời hiệu khởi kiện 10 năm kể từ thời điểm phát sinh quyền thừa kế. Trường hợp thứ hai, UBND có thẩm quyền giải quyết vì đất đai chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Việc định giá là cần thiết thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan giám định độc lập thực hiện. Việc thỏa thuận của các đương sự nếu đồng thuận thì Tòa án sẽ công nhận, nếu không Tòa sẽ xét xử theo luật và sẽ ra phán quyết buộc các bên phải thực hiện cho dù có người không đồng ý, nhưng bản án khi đã có hiệu lực thì bắt buộc các bên phải chấp hành.
Bố mẹ tôi sinh được 5 người con, 2 trai, 3 gái, đến năm 2001 thì bố mẹ tôi mất. Không để lại di chúc. Anh trai tôi đã tự ý đi làm sổ đỏ và được cấp năm 2003. Đến tháng 12 năm 2013 tôi mới phát hiện ra. Tôi xin hỏi tôi có khởi kiện để đòi quyền thừa kế có được không?
Bạn có quyền khởi kiện về chia thừa kế. Tuy nhiên do thời hiệu để tòa án xử lý việc chia thừa kế là 10 năm mà bố, mẹ bạn đã mất được 12 năm rồi nên thời hiệu đã hết. Vì vậy, nếu trước đây, di sản thừa kế đã được các đồng thừa kế xác định là tài sản chung chưa chia thì không vấn đề gì nhưng nếu chưa có sự kiện đó thì bạn cần có lý do khác để khôi phục lại thời hiệu.
Gia đình tôi có 4 người Cha, Mẹ và 2 người con gái, tôi là con gái út. Cha tôi đột ngột mất năm 2008 không có để lại di chúc, sau đó khoảng 1 năm mẹ tôi có người chồng mới, tôi gọi là dượng. Gần đây mẹ tôi muốn bán nhà nhưng không cho ai biết, khi mọi chuyện vỡ lẻ ra, mọi người làm văn bản "VĂN BẢN KHAI NHẬN, PHÂN CHIA THỪA KẾ". Nhưng người thừa kế được quy định như sau trong văn bản: bà nội tôi, mẹ tôi, và chị tôi, trong đó bà nội tôi nhường phần thừa kế lại cho chị em tôi. Mọi người trong nhà thỏa thuận như sau: phần tài sản kia được chia ra làm 1/2, mẹ tôi 1/2, 1/2 còn lại chia ra làm 4: mẹ tôi, nội và 2 chị em, nhưng 2 chị em tôi mỗi người được lấy thêm 20tr từ phần của mẹ tôi. Thống nhất chia đúng như vậy chị em tôi mới ký giấy để bán nhà, vì mẹ tôi muốn ở riêng với dượng. Việc thỏa thuận hoàn toàn không có giấy tờ. Khi mọi chuyện đã thống nhất, chị em tôi ký giấy, khi vừa nhận tiền từ người mua xong thì mẹ tôi vẫn giao tiền đúng như đã hứa, nhưng kèm thêm 1 điều kiện: mỗi người phải trả lại 20tr kia nếu không thì sẽ thưa 2 chị em tôi ra tòa. Tôi muốn hỏi luật sư là: 1. 2 chị em tôi không trả lại 20tr thì có sau không ? 2. Nếu phải chia theo luật thì có phải 1/2 chia riêng cho mẹ tôi, còn 1/2 còn lại vẫn có phần của mẹ tôi (chia cho mẹ tôi, nội và 2 chị em) ? 3. Khoản 2 điều 676: Người thừa kế theo pháp luật có nói "những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau". Điều này hoàn toàn trái ngược lại với câu số 2 tôi muốn hỏi ở trên, đâu mới là đúng luật ? 4. Nếu phải ra tòa thì mức án phí có ngạch dựa vào đâu, dựa vào 20tr hay 40tr hay là toàn bộ số tiền của ngôi nhà bán được.   Mong hồi âm của luật sư !
1/ Việc thỏa thuận giao thêm 20 triệu cho 2 chị em bạn là sự tự nguyện thỏa thuận trong giao dịch dân sự bình thường, theo đó nếu 2 chị em bạn chứng minh được việc mẹ bạn thỏa thuận giao thêm cho mỗi người 20 triệu để được ký giấy mua bán nhà thì 2 chị em bạn không phải trả lại số tiền trên. Đối với câu hỏi số 2 và số 3 Luật sư sẽ trả lời chung cho bạn luôn nhé 2/ Việc chia thừa kế 1/2 chia riêng cho mẹ bạn, 1/2 còn lại chia đều cho các đồng thừa kế gồm có : Bà nội, mẹ bạn và 2 chị em bạn mỗi người được hưởng 1 phần di sản ngang nhau là đúng qui định của pháp luật. Bởi căn nhà này là tài sản chung của ba và mẹ bạn nên theo qui định của pháp luật thì 1/2 căn nhà sẽ thuộc về ba bạn và 1/2 sẽ thuộc về mẹ bạn. Do vậy, khi ba bạn mất thì 1/2 căn nhà của ba bạn sẽ được chia thừa kế theo pháp luật theo qui định của điều 676 BLDS 2005 là đúng qui định pháp luật. 3/ Nếu phải ra tòa thì án phí sẽ căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của mẹ bạn là 40 triệu (2 chị em) mà thôi, không liên quan đến giá trị căn nhà. như vậy án phí sẽ là 5% của giá trị tài sản có tranh chấp nhé.
Lúc chưa lập gia đình thì cùng mẹ khai hoang đất đến khi lập gia đình thì ra ở riêng và làm ăn trên mảnh đất ấy... Bây giờ người chồng mất đi làm di chúc để lại cho vợ con nhưng phía mẹ lại không đồng ý. bây giờ phải giải quyết lần sao và đất này chưa có giấy CNQSDĐ..
Căn cứ vào thông tin bạn nêu thì tôi hiểu là người chồng đã cùng mẹ của mình khai hoang đất. Đối với câu hỏi của bạn tôi có thể tư vấn như sau: - Trường hợp đất đã được kê khai (dù chưa được cấp sổ) trong đó có phần người chồng (ví dụ kê khai cấp cho hộ gia đình) thì có cơ sở người chồng được hưởng một phần tài sản. Khi đó phía bạn thỏa thuận với gia đình về việc cấp sổ đỏ khi UBND thực hiện (có thể đề nghị UBND huyện cấp tách sổ ngay từ đầu). - Trường hợp đất kê khai không có phần của người chồng thì phía bạn có thể đề nghị chia phần tương đương với giá trị đóng góp của người chồng trong việc khai hoang. Nội dung này nếu gia đình không thống nhất được thì tòa án là cơ quan thẩm quyền giải quyết. Lưu ý: Đất không thuộc Điều 100 Luật đất đai thì có thể được UBND giải quyết trên cơ sở yêu cầu của các bên liên quan. Tuy nhiên trường hợp như bạn nêu thì thông thường UBND không quyết định về giá trị tài sản mỗi bên được hưởng nên bạn có thể cân nhắc đến thẩm quyền tòa án khi các bên không thống nhất được phương án.
Tôi năm nay 23 tuổi . Tôi được biết ba tôi đang có con riêng với một người phụ nữ khác. Trong trường hợp nếu ba tôi mất không có di chúc thì người con riêng ấy có quyền thừa kế hay không ?  Nếu ba tôi có di chúc thì  số tài sản mà ông ấy để cho người con riêng và người phụ nữ có được chia theo đúng như tờ di chúc không ạ ?
- Con riêng cũng có quyền thừa kế như con chung. - Di sản sẽ được chia theo di chúc (trừ trường hợp di chúc không có hiệu lực theo quy định pháp luật). Tuy nhiên vẫn có những người được hưởng di sản kể cả di chúc không để di sản cho họ, ví dụ con chưa thành niên.
Bà ngoại em đã mất năm 2006, nhưng khoảng 10 năm trước, lúc bà ngoại còn sống. Thì 14 anh, em họp mặt bàn bạc (con ruột của ngoại em). Trong cuộc họp đó, cậu tư của em đã ngăn cản ngoại em việc chia tài sản đều cho 14 người con là165 cây vàng, và mỗi ng 10 triệu tiền mặt , với lý do ngoại em còn sống nên không chia tài sản. Nhưng năm 2006, ngoại em mất (không để lại di chúc), thì lúc đó số tiền mặt chỉ còn 200 triệu đồng. Cả nhà đều biết rõ là 4 người con út ở chung với ngoại đã chiếm đoạt hết, vì họ không đi làm mà vẫn rất giàu (chỉ có 4 người con út sống chung với ngoại) Việc trên có phải là tội lạm dụng tín nhiệm của anh em để chiếm đoạt tài sản không? Nếu không phải là tội gì? Và nếu chỉ có các nhân chứng là 13  người còn lại, không có giấy tờ . thì việc này có thể nhờ sự điều tra và giải quyết của công an không ạ?
1. Theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự thì tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là người nào nhận tài sản của người khác thông qua một giao dịch hợp pháp, sau đó gian dối, bỏ trốn hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả lại tài sản thì mới bị xử lý hình sự. 2. Theo thông tin bạn nêu thì vụ việc của gia đình bạn không có dấu hiệu hình sự. Đó chỉ là tranh chấp dân sự, thừa kế tài sản. Nếu gia đình bạn không thống nhất được với nhau về việc chia thừa kế thì có quyền khởi kiện tới tòa án để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Nếu bà ngoại bạn không có di chúc hợp pháp thì di sản của bà bạn để lại sẽ chia theo pháp luật cho các thừa kế quy định tại Điều 676, Điều 677 Bộ luật dân sự năm 2005.
Ông bà cháu có 720m2 đất( đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1991-tài sản hình thành trước thời kì hôn nhân)  Năm 2004 ông cháu chia cho 2 người con mỗi người con  200m2 đất , cán bộ địa chính đã xác định mốc giới, kích thước và đã đóng thuế đầy đủ nhưng chưa đăng ký quyền sử dụng đất( chưa làm sổ đỏ ) . năm 2008 ông mất và để lại 320m2 đất. năm 2012 bà mất. Sau khi bà mất các con xảy ra tranh chấp trong việc phân chia di sản. với nội dung trên cháu có 2 câu hỏi muốn các bác giải đáp giúp cháu ạ? 1.Việc 2 mảnh đất chia cho 2 người con đã nộp thuế và có bản đồ mốc giới, kích thước thửa đất rồi nhưng bây giờ xảy ra tranh chấp thì 2 ảnh đất của 2 người con có nằm trong phần di sản của người cha để lại không ? và sẽ giải quyết vụ việc trên như thế nào?
Theo quy định pháp luật thì việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực từ thời điểm đăng ký (ghi tên bên nhận quyền sử dụng đất vào hồ sơ địa chính) thủ tục chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực và phải được đăng ký theo quy định pháp luật. Theo thông tin bạn nêu thì nhà đất của ông bà bạn đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và có ý định tặng cho con nhưng chưa thực hiện thủ tục theo quy định pháp luật nên việc chuyển quyền chưa có hiệu lực pháp luật. Hai phần diện tích đất đó (mặc dù đã tách thửa đất, nộp thuế riêng) vẫn là di sản thừa kế của ông bà bạn.
Kính chào luật sư! Cho e hỏi về thủ tục cấp lại GCN QSDĐ GCN QSDĐ được cấp vào năm 2006 cho hộ ông A, nhưng đến năm 2008 ông A mất, các con của ông cũng đã chuyển đi nơi khác, hộ khẩu hiện nay thì cũng chỉ có vợ ông đứng tên.  Đã lam đơn xin cấp lại GCN QSDĐ và có biên bản kết thúc không có tranh chấp, nhưng đến khi lại 1 cửa thì được hướng dẫn là phải thêm tờ cam kết không bỏ sót hàng thừa kế và tờ thỏa thuận giữa các thành viên thuộc hàng thừa kế thứ 1. Vậy cho e hỏi làm thủ tục đó cần những giấy tờ gì và phải đến VPCC phải không? Kính mong luật sư tư vấn giùm
Cam kết không bỏ sót hàng thừa kế có thể xin xác nhận tại UBND xã nơi có đất. Thỏa thuận phân chia di sản thửa kế của các đồng thừa kế hàng thứ nhất đồng ý xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có thể thực hiện tại văn phopfng công chứng. Bạn đến văn phòng công chứng nơi có đất để được hướng dẫn cụ thể.
Dượng tôi kết hôn với dì năm 1973 và về sống chung một nhà cùng vợ trước của dượng (ngôi nhà này là tài sản của dượng tôi). Đến 10 năm sau dì tôi và dượng khai hoang một mảnh đất và ở đó cho đến nay. Vậy dì có được xác nhận là vợ hợp pháp của dượng tôi hay không? Năm 2010 dượng tôi mất không để lại di chúc, vợ trước của dượng đòi chia 1/3 giá trị tài sản nơi dì đang ở. Vậy dì có được chia 1/3 tài sản mà vợ trước của dượng tôi đang ở hay không?
Thứ nhất, về vấn kết hôn của dì và dượng bạn thuộc quy định tại mục 1 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình quy định như sau: “Theo quy định tại điểm a khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn, nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Cần chú ý là trong trường hợp sau khi quan hệ vợ chồng đã được xác lập họ mới thực hiện việc đăng ký kết hôn, thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận kể từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng), chứ không phải là chỉ được công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn”. Nghĩa vụ đăng ký kết hôn chỉ đặt ra đối với trường hợp chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 trở đi đến trước ngày 01/01/2001. Do đó, trường hợp dì bạn đã kết hôn với chồng từ năm 1973 (tức là trước ngày 03/01/1987) thì theo quy định nói trên, kể cả trường hợp bà chưa làm thủ tục đăng ký kết hôn thì hôn nhân của vợ chồng dì bạn vẫn được công nhận và bà là vợ hợp pháp của chồng, có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định. Thứ hai, liên quan đến vẫn đề chia di sản thừa kế. Theo quy định của Điều 31 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 thì vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật thừa kế. Vì vậy, sau khi dượng bạn chết, dì bạn được hưởng một phần tài sản nằm trong khối tài sản chung của hai vợ chồng và một phần tài sản được thừa kế từ tài sản riêng của chồng. Việc phân chia di sản thừa kế phụ thuộc vào việc tài sản thừa kế là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng. Như bạn trình bày, vợ chồng dì bạn đã khai hoang một mảnh đất từ năm 1983 và sinh sống ổn định từ đó đến nay. Do đó, về nguyên tắc mảnh đất này phải được xác định là tài sản chung của vợ chồng bà và bà có quyền sử dụng, định đoạt đối với 1/2 giá trị quyền sử dụng đất đó. Theo quy định tại Điều 676 Bộ luật Dân sự 2005 thì hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Có nghĩa là đối với 1/2 giá trị mảnh đất còn lại mới là tài sản thừa kế và dì bạn cùng người vợ cả cũng như những người khác thuộc hàng thừa kế thứ nhất chỉ có thể đòi quyền thừa kế đối với khối tài sản này. Việc người vợ cả đòi chia 1/3 giá trị mảnh đất nơi dì bạn đang ở là hoàn toàn không có cơ sở. Ngoài ra, vì dì bạn được pháp luật công nhận là vợ hợp pháp của chồng nên bà không những có quyền thừa kế 1 phần đối với 1/2 giá trị mảnh đất nói trên mà còn có quyền thừa kế đối với 1 phần giá trị tài sản hiện người vợ cả đang ở nếu tài sản đó được xác định là tài sản thừa kế do chồng bà để lại. Do chồng bà không để lại di chúc nên bà có thể làm đơn yêu cầu tòa án chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật.
Ông (A) qua đời đầu năm 2013, không để lại di chúc. Ông có 1 vợ 86 tuổi, 7 con chung của 2 vợ chồng, trong đó con trai Út đang chống đối thoả thuận phân chia tài sản của 6 người con còn lại, đại diện là người chị cả (X). Tài sản của Ông (A ) để lại là 1 căn nhà 300m2 và 1 ruộng lúa (3000m2), tài sản trong thời gian hôn nhân, và khoảng nợ là 3 lượng vàng. Con trai Út ở chung với Ông bà, và được Ông A uỷ quyền 17000m2 trong lúc ông A còn sống. GIấy Uỷ quyền lập tại Uỷ ban xã, chỉ ghi "Uỷ quyền" mà ko ghi rõ uỷ quyền quyền gì. Lúc ông A còn sống ngược đãi Ông, đã ép ông A ký bán nhà/đất nhiều, nên hiện tại tài sản Ông A mới chỉ còn 1 nhà 300m2 và 1 ruộng lúa 3000m2 Vì vậy 6 đứa con thống nhất như sau: - Bán 1 phần ruộng lúa trả nợ, với phần ruộng lúa còn lại thì 50% chia cho vợ, và 50% chia đều cho 8 phần. - Nhà: 50% do vợ ông A đứng tên, 50% còn lại chia đều cho 8 phần. Phần chia cho con trai Út sẽ được quy thành tiền mặt để con trai Út làm vốn làm ăn. Tuy nhiên, vì vợ ông A đã lẩn do tuổi già, nên chị cả X sẽ đứng tên toàn bộ căn nhà, với cam kết phụng dưỡng mẹ (vợ ông Tuấn) đến hết đời và là nơi thờ cúng, không bán. Vợ ông A và 5 người con còn lại đã ký biên bản ở Phường là như vậy. - Con trai Út được ở nhà đó, nhưng không được đứng tên (vì sợ con trai Út bán tiếp). Nếu ngược đãi mẹ, thì sẽ bị đuổi khỏi nhà. Con trai Út không đồng ý với các điều trên, luôn cho rằng căn nhà đó được Ông A uỷ quyền lúc còn sống, tức là con trai Út được quyền đứng tên nhà đó 1 mình.  Buộc lòng chị cả X phải đại diện đứng ra đưa đơn kiện, con trai Út không tham gia hoà giải 2 lần.  Xin luật sư vấn giúp, xin chân thành cảm ơn: 1. Thống nhất của 6 người con còn lại có hợp pháp hay không? có hợp tình hợp lý không ạ? 2. Trong TH con trai Út không tham gia hoà giải, toà án sẽ xử như thế nào? Cả 2 bên cần phải làm gì để giải quyết tranh chấp này. Xin lỗi vì viết chưa rõ ý chỗ này       Lúc ông A còn sống ngược đãi Ông, đã ép ông A ký bán nhà/đất nhiều, nên hiện tại tài sản Ông A mới chỉ còn 1 nhà 300m2 và 1 ruộng lúa 3000m2 => Lúc ông A còn sống, con trai Út đã ngược đãi,  đã ép ông A ký bán nhà/đất nhiều, nên hiện tại tài sản Ông A mới chỉ còn 1 nhà 300m2 và 1 ruộng lúa 3000m2
1. Vấn đề thừa kế không đơn giản như em nghỉ, không ai ai có công nuôi dưỡng là được hưởng gia tài. Khi cha mẹ còn sống thì cha mẹ hoàn toàn có quyền tự định đoạt tài sản chia cho ai, không thể nói cậu út ép buộc cha me rồi ngược đãi để được lợi mà phải xác định rõ do cha bạn đã làm như vậy là do quyền của họ. Khi cha mất thì phát sinh quyền thừa kế cho các anh em, mỗi người đều được hưởng các phần thừa kế như nhau. Sáu người con con và mẹ là mỗi người được hưởng 1/7 phần di sản do cha bạn để lại. 2. Bất cứ người con nào vắng mặt Tòa vẫn xem xét di sản thừa kế cha bạn để lại đều chia đồng đều cho các con, không ai có quyền tước đoạt quyền hưởng thừa kế này được.
Nhà tôi có 3 mẹ con, tôi là con trai và 1 chị gái (bố mẹ tôi đã li hôn khi tôi còn bé. Trông họ khẩu chỉ có 3 mẹ con tôi). Năm 2008 mẹ tôi có mua 1 ngôi nhà,1 năm sau mẹ tôi mất khi tôi không có mặt ở nhà (tôi đang công tác xa không vể được) nên tôi không biết mẹ tôi có để lại di chúc hay bất kỳ thứ gì cho tôi. Đến nay tôi đã lập gia đình nên tôi hỏi chị gái tôi về việc di chúc của mẹ để lại và giấy tờ ngôi nhà mà chị em tôi đang ở nhưng chị tôi nói mẹ không để lại di chúc còn giấy tờ nhà chị cầm thì dứt khoát chị không đưa cho tôi xem. Tôi được biết khi mẹ mất có để lại di chúc nhưng chị tôi nói không có. Tôi muốn hỏi Luật Sư muốn tìm lại di chúc mẹ để lại thì phải làm như thế nào? Nay tôi muốn khiếu nại về việc chị tôi không cho tôi biết về giấy tờ nhà của mẹ để lại như nào thì tôi phải làm đơn gửi đến đâu?   Xin cảm ơn Luật Sư.
1. Nếu bạn có thông tin về việc mẹ bạn có lập di chúc ở UBND hoặc Phòng công chứng thì bạn mang giấy báo tử của mẹ bạn, giấy khai sinh của bạn đến những nơi đó để yêu cầu họ cung cấp bản sao. Nếu mẹ bạn có di chúc mà không có công chứng chứng thực, nhưng có người làm chứng thì bạn có thể hỏi người làm chứng đó là ai được giao giữ di chúc. 2. Nếu mẹ bạn có di chúc và giao cho chị bạn giữ. Đến nay chị bạn cố tình sửa chữa di chúc hoặc hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của mẹ bạn thì chị bạn sẽ không được quyền hưởng di sản (Điều 643 Bộ luật dân sự 2005). 3. Việc phân chia di sản thừa kế do mẹ bạn để lại nếu gia đình không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu không có di chúc thì bạn sẽ được hưởng một phần sản theo quy định của pháp luật. Đến thời điểm Tòa án giải quyết mà có đương sự xuất trình di chúc hợp pháp của mẹ bạn thì Tòa án sẽ chia thừa kế theo di chúc. 4. Nếu bạn có căn cứ chứng minh chị bạn đang giữ di chúc thì yêu cầu chị bạn xuất trình. Nếu chị bạn cố tình không xuất trình thì bạn yêu cầu Tòa án chia thừa kế và căn cứ vào Điều 643 BLDS để truất quyền thừa kế của chị bạn.
Xin chào luật sư!   Ông bà tôi ngoại tôi đã mất, vì một số lý do nên ông bà đã viết di chúc là mẹ con tôi được ở trên ngôi nhà của ông bà đến hết đời. Tuy nhiên quyền sở hữu lại thuộc về cháu đít tôn của ông bà, là anh họ của tôi. Mẹ con tôi đã sông cùng ông bà từ trước đến nay, và ông bà có nói bằng mồm là cho mẹ con tôi, nhưng sợ bị các dì ghen tức nên phải viết như thế. Theo tôi được biết là bản di chúc đó không hợp lệ vì không có công chứng của cơ quan pháp luật . Nhưng bây giờ gia đình nhà bác tôi và các dì liên tục gây khó dễ cho me con tôi. Xin luật sư cho tôi biết, mẹ con tôi phải ở trên mảnh đất đấy bao nhiêu năm thì ngôi nhà đấy hoàn toàn thuộc về mẹ con tôi? tôi nghe có người nói 10 năm, người thì nói 15 năm. Mong sớm nhận được câu trả lời của luật sư! Tôi xin cám ơn.
Trước hết chưa thể khẳng định di chúc của ông ngoại bạn có hiệu lực pháp luật hay không? Vì trường hợp di chúc chưa được công chứng chứng thực nhưng có ít nhất hai người làm chứng...thì di chúc vẫn có hiệu lực. Về căn cứ xác lập quyền sở hữu, sử dụng bất động sản có thể thông qua hợp đồng chuyển nhượng, hợp đồng cho tặng và được thừa kế hoặc dựa trên thời gian chiếm hữu theo điều 247 Bộ luật dân sự năm 2005 thì thời hạn để xác lập quyền sở hữu đối với bất động sản là 30 năm (chiếm hữu ngay tình không có căn cứ pháp luật), tuy nhiên trong trường hợp này của bạn sẽ không thể đạt được quyền sở hữu, sử dụng theo hình thức này vì hiện tại các bác, dì của bạn đang gây khó dễ và đang tranh chấp với gia đình bạn./. Điều căn bản bây giờ phải xem xét di chúc của ông ngoại bạn có hiệu lực pháp luật không? Đây mới là cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bạn (nếu có)./. Nếu còn vướng mắc đề nghị bạn tiếp tục hỏi và cung cấp thêm thông tin tôi sẵn sàng trả lời cho bạn.
Xin hỏi: Việt kiều là đồng thừa kế căn nhà tại Việt Nam, nay muốn cho anh ruột sống ở Việt Nam (cũng là đồng thừa kế) phần tài sản đó thì phải làm những thủ tục gì? Họ uỷ quyền cho người bên Việt Nam làm thủ tục thay họ có được không? Xin nói chi tiết hơn: Ông bà nội tôi có 3 người con : ba tôi, chú tôi và cô út - Năm 1980 chú tôi và cô út ra nước ngoài, trong năm này ông nội tôi mất, không để lại di chúc - Năm 1991 Bà nội tôi mất, có để lại di chúc cho ba tôi - Hiện nay cả gia đình chú và cô út đều muốn cho ba tôi phần thừa kế từ ông nội tôi - Họ rất bận nên muốn ủy quyền cho ba tôi làm những thủ tục khai nhận và cho tặng tài sản thừa kế thay họ - Có một phát sinh là chú tôi mới mất, thím tôi và các em vẫn có ý định cho ba tôi phần tài sản đó Xin được các luật sư hướng dẫn, xin chân thành cám ơn
Căn cứ nội dung bạn trình bày thì ông nội bạn chết không để lại di chúc, sau đó bà nội bạn chết để lại di chúc cho ba bạn, vì thế theo luật thì bà nội bạn chỉ được quyền di chúc lại cho ba bạn những tài sản thuộc quyền sở hữu của bà bạn, ở đây ông nội bạn chết nhưng tài sản chưa được chia thừa kế. Theo quy định tại Điều 676 bộ luật dân sự 2005 thì bà, ba bạn và chú, cô út bạn là người đồng hàng thừa kế nên được hưởng di sản bằng nhau do ông nội bạn chết không để lại di chúc. Hiện giờ chú và cô út bạn đều bận và đồng ý nhường lại quyền hưởng di sản cho ba bạn. Bạn hướng dẫn chú, cô út bạn đến đại sứ quán hoặc cơ quan lãnh sự quán Việt Nam tại nước chu, cô út bạn sinh sống để làm thủ tục từ chối nhận di sản thừa kế, cơ quan ngoại giao Việt Nam xác nhận và gửi về Việt Nam, trên cơ sở đó ba bạn đến Cơ quan công chứng làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế và sang tên theo quy định của pháp luật.
Kính chào luật sư, xin luật sư tư vấn cho vấn đề của tôi: Ba mẹ tôi có 3 ngôi nhà., có 4 người con. Ba tôi mất cách đây 8 năm nhưng không để lại di chúc. Năm 2006 gia đình tôi họp và quyết định chia cho 3 người con mỗi người 1 căn nhà trên (Mẹ tôi và một người chị không yêu cầu nhận), lập thành văn bản có công chứng của UBND Phường. Sau đó anh tôi chuyển tên sở hữu QSD ngôi nhà số 1 mà anh ấy hưởng sang tên anh ấy. Nhưng cách đây vài tháng, khi tôi làm thủ tục chuyển tên QSD nhà số 2 sang cho tôi thì phòng công chứng yêu cầu Mẹ và cách anh chị khác phải ký tên. Mẹ và 2 người chị tôi đồng ý ký tên nhưng anh tôi không đồng ý và yêu cầu nhà đó phải để cho anh ấy. Sau nhiều lần họp gia đình nhưng không thành công vì anh ấy luôn muốn phải được 2 nhà. Vì anh ấy đã "lật kèo" văn bản phân chia lập năm 2006 nên Mẹ tôi và 3 chị em tôi dự định đưa ra tòa án giải quyết. Tôi muốn hỏi là ngôi nhà số 1 mà anh tôi đã chuyển tên sang anh ấy có còn được xem là tài sản thừa kế chưa chia của cha mẹ tôi nữa hay không. Tôi có thể yêu cầu tòa nhập ngôi nhà đó vào 2 ngôi nhà còn lại để chia lại theo pháp luật hay không. Công chứng viên ở phòng công chứng tỉnh có nói là nếu bây giờ chia theo pháp luật,mặc dù ngôi nhà số 1 đã được chuyển tên qua tên anh tôi, thì Mẹ tôi vẫn được hưởng 1/2 của cả 3 ngôi nhà, 1/2 còn lại của ba tôi được chia điều cho Mẹ và các con (ông bà nội tôi mất trước ba tôi). Xin hỏi như vậy có đúng không ạ. Tôi chân thành cảm ơn luật sư.
Vấn đề em hỏi theo quan điểm của tôi thì nên xem lại: - Nếu các bên đã thỏa thuận phân chia di sản thừa kế và đã lập thành văn bản có xác nhận thì tại sao công chứng yêu cầu các đồng thừa kế ký!! Vì vậy em nên xem lại biên bản thỏa thuận phân chia di sản phù hợp pháp luật chưa - Nay nếu tranh chấp thì ra Tòa sẽ có 02 hướng giải quyết là công nhận hoặc không công nhận biên bản thỏa thuận. tuy nhiên giải quyết thế nào tùy thuộc từng trường hợp cụ thể: Ví dụ: 1. Nếu các bên công nhận văn bản thỏa thuận trước đây và được Tòa án chấp thuận thì tài sản trên sẽ chia 03 đúng như thỏa thuận 2. Nếu các bên không đồng ý với thỏa thuận trước đây và xem như hủy biên bản thỏa thuận trên thì toàn bộ tài sản mới xem xét phân chia theo pháp luật 3 nếu các bên thừa nhận có thỏa thuận nhưng ngoài ra còn có những thỏa thuận khác thì sẽ giải quyế khác.. Vì vậy nên xem lại lời tư vấn của công chứng và hồ sơ cụ thể của gia đình em nhé
Ông nội tôi mất đột ngột không để lại di chúc, tài sản đất đai, nhà ở do ông nội đứng tên, vậy theo luật thừa kế là bà nội và ba tôi (ba tôi là con một) sẽ được thừa kế, nhưng bà nội không còn tờ chứng nhận hôn thú với ông nội do lạc mất vậy bà nội có được hưởng thừa kế theo luật không? Thủ tục để ba tôi đứng tên tài sản thừa kế như thế nào? Trong hộ khẩu gia đình có tên 2 bác là cháu gọi ông nội là cậu ruột, vậy việc đứng tên quyền sử dụng đất , nhà ở của ba tôi có cần 2 bác này ký tên đồng ý không? Tất mong được sự tư vấn của luật sư. Tôi xin chân thành cảm ơn!!!
Nếu ông nội bạn mất không để lại di chúc thì di sản của ông là 50% trong khối tài sản chung của ông bà nội bạn sẽ được chia thừa kế theo pháp luật. Hàng thừa kế thứ nhất sẽ được hưởng bằng mỗi phần bằng nhau, cụ thể là bà nội bạn và ba bạn sẽ được hưởng 50% di sản của ông nội bạn nếu khi mất ông nội bạn không còn bố mẹ và không có con nuôi hoặc con rơi. Đối với bà nội bạn không còn lưu giữ giấy ĐKKH thì có thể làm giấy xác nhận nhờ địa phương chứng nhận kèm theo giấy khai sinh của ba bạn là có thể chứng minh mối quan hệ hôn nhân của ông bà. Để được nhận thừa kế, ba bạn và bà nội bạn phải làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế, khi làm không cần chữ ký hay ý kiến gì của hai bác trên vì không liên quan. Bạn có thể tham khảo qui định sau: Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật 1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. 2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. 3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Chào luật sư, tôi có vấn đề rắc rối về chia tài sản bao gồm đất đai và nhà cửa trong gia đình cụ thể như sau: Gia đình tôi gồm mẹ và 7 người con đã được hưởng tài sản phần cha; còn tài sản phần mẹ, mẹ tôi đã để lại di chúc phân chia cụ thể như thế này: cắt 1 phần đất cho đứa con gái út, chuyển quyền sử dụng đất cho con gái út và xây nhà trên mảnh đất đó với tên chủ hộ căn nhà là mẹ tôi; phần đất bên cạnh tiếp tục chia đều cho 7 người tính luôn cả con gái út vừa mới được hưởng miếng đất. Sau khi mẹ tôi mất, vì gia đình bất hòa nên đã xảy ra cự cãi rằng giá trị căn nhà phải được tính và chia đều cùng với mảnh đất mà mẹ tôi để lại cho 7 người, tất nhiên là đứa út không đồng ý và chúng tôi bàn với nhau ra tòa để giái quyết thỏa đáng. Vậy xin luật sư cho tôi hỏi: theo luật anh chị em tôi có quyền hưởng đều giá trị căn nhà mẹ tôi đứng tên mà người con út đang ở không? Thời gian tòa thụ án mất bao lâu? Án phí được tính như thế nào và chúng tôi có thể chi trả án phí sau khi kết thúc kiện tụng được không?
Thứ nhất: Về căn nhà thuộc quyền sở hữu của mẹ bạn Do di chúc của mẹ bạn để lại chỉ đề cập đến việc phân chia quyền sử dụng đất mà không nói đến căn nhà, chính vì vậy căn nhà này sẽ được chia thừa kế theo pháp luật. Cụ thể, căn nhà sẽ được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết (Điều 676 Bộ luật dân sự). Nếu mẹ bạn chỉ có 07 người con là anh chị em bạn và không còn ai khác thuộc hàng thừa kế thứ nhất như đã nêu ở trên thì căn nhà này sẽ được chia đều 7 phần, mỗi người con hưởng một phần như nhau. Thứ hai: Về vấn đề thụ lý vụ án Trường hợp gia đình bạn muốn nộp đơn khởi kiện ra Tòa, theo quy định tại Điều 167 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án sẽ tiến hành nhận đơn và ghi vào sổ nhận đơn, sau đó trong thời hạn 05 ngày Tòa án phải xem xét và đưa ra một trong các quyết định như sau: 1. Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình; 2. Chuyển đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án khác; 3. Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Thứ ba: Về vấn đề án phí Bạn và các anh chị em gửi đơn khởi kiện ra Tòa phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm trong trường hợp Tòa án thụ lý vụ án (quy định tại Khoản 1 Điều 130 Bộ luật tố tụng dân sự). Mặt khác, nếu Tòa án xét xử và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện thì bạn và các anh chị em phải chịu án phí sơ thẩm, điều này được quy định tại khoản 1 Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự. Về mức tạm ứng án phí và án phí sẽ tùy thuộc vào giá trị tài sản có tranh chấp.
Mẹ tôi đã mất từ khi tôi còn nhỏ, cuối năm 2013 bố tôi mất, để lại một ngôi nhà, bố tôi không để lại di chúc, bố mẹ tôi chỉ có một người con là tôi. Vậy tôi có quyền hưởng thừa kế ngôi nhà đó có đúng không? Ngôi nhà đó có phải là tài sản chung của vợ chồng tôi hay là tài sản của riêng tôi?
Thứ nhất, ngôi nhà của bố bạn để lại, không có di chúc nên sẽ được phân chia theo pháp luật. Căn cứ vào Điều 676 Người thừa kế theo pháp luật: "Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết..." Bạn là người thừa kế duy nhất của bố bạn. Do vậy, bạn được hưởng thừa kế ngôi nhà do bố bạn để lại. Thứ hai, tài sản do bố bạn để lại khi chia thừa kế theo pháp luật là tài sản riêng của bạn. Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình quy đinh: Tài sản chung của vợ chồng "1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung" Điều 32. Tài sản riêng của vợ, chồng "1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung" Như vậy, trong trường hợp này, ngôi nhà của bạn do được thừa kế từ bố bạn thì nó là tài sản riêng của bạn. Tuy nhiên, nếu bạn đồng ý nhập nó vào khối tài sản chung của vợ chồng thì nó được coi là tài sản chung của vợ chồng bạn.
Bố tôi và vợ kế có một ngôi nhà  là tài sản chung. Tôi và 2 chị gái là con riêng của bố và vợ kế không có có con đẻ cũng như con nuôi hợp pháp. Nay bố tôi mất đi và không để lại di chúc. Vậy tôi muốn hỏi vợ kế của bố tôi và chúng tôi sẽ được phân chia tài sản như thế nào. Và bà vợ kế của bố tôi có quyền giao bán tài sản không? Và nếu được giao bán thì trong điều kiện như thế nào?
Do căn nhà trên là tài sản chung của bố và mẹ kế của bạn, nên theo qui định của pháp luật thì 50% giá trị căn nhà sẽ là di sản thừa kế của bố bạn khi ông mất đi (không để lại di chúc). Hàng thừa kế thứ 1 của ông sẽ được hưởng thừa kế bằng những phần bằng nhau trong khối di sản của ông để lại. Cụ thể là 50% giá trị căn nhà sẽ được chia đều thành 4 phần gồm có : 3 chị em bạn cùng với mẹ kế (với điều kiện ông bà nội bạn đã chết trước bố bạn) mỗi người 1 phần bằng nhau. 2/ Trong trường hợp mẹ kế của bạn có ý rao bán căn nhà trên thì bà phải có trách nhiệm chia lại cho 3 chị em bạn phần thừa kế mà chị em bạn được hưởng từ bố mình. Khi đó bà mới có thể quyết định việc bán căn nhà trên
Tài sản tranh chấp là đất thuộc sở hữu người em ruột đã mất của gia đình tôi. Đất có sổ đỏ riêng đứng tên em tôi,chỉ có khẩu là vẫn trung với nhà tôi vì chưa tách. (các anh em còn lại đã tách khẩu và có sổ đỏ riêng hết rồi)   -Nguồn gốc :Đất thuộc tài sản thừa kế do cha mẹ để lại cho mỗi anh em. Toàn  bộ đất được bố mẹ chia đều cho 4 anh em trai, còn các chị gái đều lập gia đình và không dược chia đất.    -Nội dung tranh chấp : là vấn đề thừa kế đất sau này, sợ nhà tôi cầm chung hộ khẩu và cầm sổ đỏ( sổ đỏ trước khi mất em trai đã gửi tôi) sẽ chiếm mất đất. Do gia đình tôi là người nộp thuế. Gia đình muốn hỏi nếu ra pháp luật chia đều thì gia đình tôi đứng chung khẩu với người em đã mất( đã đóng thuế đất 4 năm)thì có được quyền hưởng nhiều hơn không.Tôi là người anh thứ 2 không phải anh trưởng.  Và người chị cả đã mất thì con cái của chị có quyền thửa hưởng đất này không?   Rất mong nhận được lời khuyên sớm nhất từ phía luật sư.Gia đình xin cảm ơn!
Tuy là người em của bạn có chung hộ khẩu với gia đình bạn nhưng phần đất của người em là riêng biệt và đã có sổ đỏ nên đất đó là của riêng người em bạn. Nay ngươi em mất đi ko để lại di chúc nên đất của em người là di sản thừa kế chia theo quy định của pháp luật thừa kế: Chia đều cho các đồng thừa kế hàng thứ nhất mỗi người một phần bằng nhau bao gồm Cha, mẹ, vợ và các con của người đã mất.
Vợ chồng tôi có khối tài sản chung là một căn nhà và một mảnh đất. Chồng tôi đã làm một bản di chúc viết tay nhưng không có công chứng. Xin cho hỏi, Di chúc này có giá trị không? Hiện nay chồng tôi đang ốm nặng, nếu chồng tôi chết, các con riêng và người vợ trước của ông ấy có quyền thừa kế tài sản của chồng tôi không?
Theo Điều 655 Bộ luật dân sự, di chúc bằng văn bản không có chứng nhận, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp nếu có đủ hai đều kiện: người lập di chúc còn minh mẫn, sáng suốt khi lập di chúc, không bị lừa dối, đe dọa và cưỡng ép; nội dung di chúc không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội, hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật. Như vậy, nếu di chúc viết tay của chồng bà thoả mãn hai điều kiện trên thì vẫn có giá trị pháp lý, nếu chồng bà chết thì chỉ có những người được thừa hưởng di sản ghi trong di chúc mới được thừa kế. Trường hợp di chúc của chồng bà không đủ các điều kiện trên thì di chúc đó không hợp pháp, phần tài sản của chồng bà sẽ chia cho những người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất là cha, mẹ, vợ và tất cả các con của chồng bà (kể cả con nuôi, con riêng) của ông ấy, mỗi người được hưởng một phần bằng nhau. Nếu vợ trước đã ly hôn với chồng bà thì sẽ không được thừa kế theo pháp luật đối với di sản của chồng bà. Ngoài ra, dù di sản của chồng bà dược chia theo di chúc hay pháp luật thì những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản ít nhất bằng 2/3 suất của những người thừa kế theo pháp luật: con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động; cha, mẹ, vợ chồng của người chết. Trường hợp người đã bị kết án về hành vi cố ý xâm hại tính mạng, sức khỏe; hành hạ, ngược đãi, xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản ở mức nghiêm trọng; vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản… thì klhông được quyền hưởng di sản thừa kế.
Ba tôi mất tháng 8 năm 2002, để lại 180m2 đất (có GCNQSDD do ba tôi đứng tên). Theo qui định thì tài sản này thừa kế cho: mẹ tôi, 02 anh em tôi và ông bà nội (ba tôi k có người vợ, con nào khác), vậy chia theo tỉ lệ thế nào? Tuy nhiên, đến nay, không ai trong hàng thừa kế đòi chia tài sản này. Bà nội tôi mất năm 2011, ông nội tôi mất năm 2012. Nay chú tôi đòi thừa kế thế vị phần tài sản của ông, bà nội tôi được thừa kế từ di sản của cha tôi, vậy có được không? Do ba tôi mất đã 10 năm, vậy chú tôi có đòi thừa kế được không hay sẽ phân chia theo tài sản chung? Nếu phân chia theo tài sản chung thì có tính ông bà nội không vì ông bà nội đã mất và quá thời hạn thừa kế?? Xin các luật sư tư vấn dùm.
Vì những người trong hàng thừa kế của ba bạn không yêu cầu chia thừa kế và đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế, nên tài sản này được coi là tài sản chung của những người trong hàng thừa kế. Nếu có phần chia thì tỷ lệ được chia thành các phần bằng nhau cho mỗi người. Khi ông bà của bạn mất, sẽ phát sinh quyền thừa kế của những người trong hàng thừa kế của ông bà của bạn ( vì ông bà không có di chúc), phần di sản của ông bà để lại gồm tài sản riêng của ông bà và phần thừa kế mà ông bà được hưởng của ba bạn. Do đó, nếu có yêu cầu khởi kiện thì chú bạn sẽ yêu cầu đòi chia thừa kế đối với di sản của ông bà bạn để lại chứ không phải đòi chia tài sản chung. Điều 634 Bộ luật dân sự quy định: Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.
Mẹ tôi có con riêng của chồng trước la 1 trai 2 gái Bố tôi có con riêng của vợ trước là 1 trai 1 gái Tất cả đã lớn và có gia đình ở riêng Bố mẹ tôi về sống với nhau hơn 20 năm co hôn thú và chỉ có 1 mình tôi là con gái chung.  Bố tôi bị ung thư và tôi cũng mới lập gia đình nhưng vẫn đang ở nhà để chăm sóc nố tôi ốm.  Tài sản là căn nhà tôi cùng chồng và bố mẹ tôi đang ở là tài sản do cả 2 làm ăn mua được sau khi về ở với nhau  Tôi xin hỏi là nếu theo luật thì sau khi bố tôi chết tài sản sẽ chia như thế nào? Con riêng của bố mẹ tôi có được chia tai sản hay không.  Và nếu bố tôi viết di chúc lại chỉ cho 1 mình tôi thì mẹ tôi có can thiệp được không? Rất mong sớm nhận được câu trả lời của luật sư. Tôi xin chân thành cảm ơn.
1. Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: " Ðiều 632. Quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Ðiều 676. Người thừa kế theo pháp luật 1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. 2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. 3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Ðiều 679. Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Ðiều 676 và Ðiều 677 của Bộ luật này. Ðiều 643. Người không được quyền hưởng di sản 1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản: a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. 2. Những người quy định tại khoản 1 Ðiều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc. ". Như vậy, nếu cha bạn không để lại di chúc thì sau khi cha bạn qua đời, di sản sẽ thuộc về hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 BLDS. Người nào thuộc trường hợp quy định tại Điều 643 sẽ không được hưởng di sản. Con riêng, con chung đều được quyền thừa kế như nhau. 2. Nếu ngôi nhà đó là tài sản do cha mẹ bạn có được trong thời kỳ hôn nhân (sau khi đăng ký kết hôn) thì sẽ là tài sản chung vợ chồng và mỗi người chỉ được định đoạt phần sở hữu của mình. Nếu là tài sản chung vợ chồng thì cha bạn chỉ có quyền lập di chúc để định đoạt 1/2 giá trị nhà đất.
Chào luật sư, trường hợp của tôi như sau: Cha mẹ tôi mất để lại tài sản là một căn nhà (mẹ tôi đứng tên chủ sở hữu, mất năm 2005, không để lại di chúc). Căn nhà này được sử dụng để ở cho tất cả thành viên trong gia đình. Anh em chúng tôi gồm có tám người, một người định cư tại Pháp (từ khoảng năm 1980), hai người mất (chưa có vợ con), còn lại hiện đang sinh sống tại TPHCM. Đến nay, xảy ra trường hợp người anh ở Pháp muốn dành quyền sở hữu căn nhà và không cho các em mình vào ở với lý do là đã bỏ tiền ra xây dựng nhà (!), ngoài ra không chưng ra được cơ sở pháp lý nào. Nay tôi muốn khởi kiện (mặc dù không được sự đồng tình của các thành viên khác trong gia đình) để được chia một phần tài sản (là căn nhà) do cha mẹ tôi để lại. Xin luật sư cho biết: Tôi có thể khởi kiện thành công và nhận được một phần tài sản? Tài sản (căn nhà) này sẽ được chia cho những ai trong các anh em, có phần cho người định cư ở nước ngoài? Tôi có thể nộp đơn khởi kiện tại đâu và chi phí tòa án có được trích từ trong tài sản chung? Chân thành cảm ơn luật sư.
Di sản thừa kế là thuộc bố mẹ chị, khi mất không để lại di chúc thì những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: con ruột, con nuôi, vợ chồng, cha mẹ ruột đều thuộc diện thừa kế. Tuy anh trai bạn ( ở Pháp ) có công sức đóng góp xây nhà tuy nhiên do có các người thuộc diện thừa kế khác nên không thể anh trai bạn có thể coi là sở hữu riên được. Một trong các người được thừa kế theo luật có quyền khởi kiện yêu cầu tòa án phân chia di sản thừa kế. Tuy nhiên cần chú ý thời hiệu khởi kiện là 10 năm. Nếu có xác nhận tài sản chung chưa chia thì theo NQ 02 - HĐTP năm 2003 thì thời hiệu khởi kiện vẫn còn nếu trường hợp đã quá 10 năm. Khi đó các bên có thể thỏa thuận với nhau hoặc khởi kiện ra Tòa án để được phân chia di sản thừa kế nếu mình thuộc diện thừa kế như tôi nói ở trên.
Bố mẹ tôi hiện đã li hôn.bố tôi có vợ 2 và 1 đứa con trai riêng (không biết có phải là con đẻ của bố tôi không nữa).đã phân chia tài sản,mẹ tôi với em gái ở 1 căn nhà, còn bố tôi là 1 mảnh đất. Bố tôi mới xây 1 ngôi nhà khác. Vậy khi bố tôi mất thì chị em tôi có được phân chia tài sản ở ngôi nhà của bố tôi ở không? Và đứa con riêng của ba tôi có được hưởng tài sản đó không? Tôi đã đi lấy chồng còn em gái đang học đại học. Vấn đề thứ 2: Bố tôi đang cầm sổ đỏ của ngôi nhà bác trai tôi đứng tôi (bác tôi là anh trai ruột của mẹ tôi). Vậy tôi xin hỏi bố tôi có thể cắm sổ đỏ đó cho ngân hàng hoặc cắm cho bọn cho vay nợ lãi được không? Bố tôi có thể bán mảnh đất đó cho ai được không?
Dù bố mẹ bạn đã ly hôn thì các bạn vẫn là con đẻ của bố bạn và có quyền hưởng di sản thừa kế của bố khi bố bạn mất, trừ trường hợp bố bạn có di chúc không để lại tài sản thừa kế cho các bạn. Người con riêng của bố bạn cũng có quyền hưởng di sản thừa kế từ bố bạn như các bạn, trừ trường hợp bố bạn tước quyền hưởng thừa kế của người ấy hoặc có di chúc để lại tài sản cho người khác. Trong trường hợp người con riêng ấy chưa đủ 18 tuổi khi bố bạn mất thì người ấy luôn có quyền hưởng thừa kế. Ngôi nhà có sổ đỏ đứng tên bác trai của bạn thì bố bạn không thể thế chấp tại Ngân hàng, cũng không thể bán được. Tuy nhiên việc cắm cho bọn cho vay nợ lãi thì có thể, nếu những người này không biết gì về pháp luật
Chào Luật sư! Gia đình tôi có 3 người con. Ba mẹ mất đi không để lại di chúc. Trên thửa đất của ba mẹ có xây 1 nhà thờ và đc đứng riêng 1 sổ đỏ. Thửa đất còn lại theo luật thì được chia đều cho 3 anh em nhưng người con giữa lại không đồng ý vì theo người con giữa:tài sản còn lại của ba ma là thửa đất trừ nhà thờ được ba má hứa trước khi chết là cho anh ta. Vì vậy anh ta không đồng ý chia cho các con còn lại nhưng anh ta không chứng minh được ba má cho anh ta. Vậy để phân chia tài sản thì phải đưa ra tòa. Xin luật sư tư vấn dùm thủ tục để đưa ra tòa và án phí là bao nhiêu? Xin chân thành cảm ơn luật sư!
Thủ tục khởi kiện trình tự như sau: 1. Gia đình làm đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp nhà, đất gởi đến UBND xã/phường nơi có thửa đất. 2. UBND sẽ mời các bên đến hòa giải, Nếu các bên không thể tự giải quyết được, thì UBND sẽ lập biên bản hòa giải không thành và chuyển đến TA giải quyết 3. Khi gởi đơn kiện kèm theo các giấy tờ sau: - Giấy khai tử của ba mẹ chi - giấy khai sinh các người. - biên bản hòa giải không thành của UBND xã/phường - các giấy tờ liên quan về thửa đất. Nội dung dơn kiện phải có phần yêu cầu giải quyết và dự kiến mức sẽ được hưởng tạm tính Chị có thể tự định giá về giá trị thửa đất và phần mình dự kiến được hưởng để TA có cơ sở tính tiền Tạm ứng án phí Căn cứ quy định pháp luật thì án phí được tính như sau: - từ 4.000.000 - 400.000.000 mức án phí là 5% - từ 400.000.000 - 800.000.000 mức án phí là 4% - từ 800.000.000 - 2.000.000.000 mức án phí là 3% - từ 2.000.000.000 - 4.000.000.000 mức án phí là 2% - trên 4.000.000.000 mức án phí là 0,1%
Kính gửi! Trường hợp người chồng mất hơn 10 năm không để lại di chúc, hàng thừa kế thứ nhất gồm: cha mẹ chồng, vợ và 2 con, những người này đều không yêu cầu chia tài sản thừa kế và giao quyền quản lí tài sản thừa kế cho người vợ. Đến khi ba mẹ chồng qua đời không để lại di chúc, các anh chị em của người chồng (con ruột của cha mẹ chồng) đòi chia tài sản thừa kế do anh trai để lại cho cha mẹ. Vậy họ có quyền khởi kiện em dâu để đòi tài sản thừa kế của anh trai để lại cho cha mẹ ruột hay không khi người chị dâu (vợ của người mất) không đồng ý thừa nhận tài sản hiện giờ là tài sản chung do chưa chia thừa kế, từ lúc chồng mất người vợ vẫn chu cấp và nuôi dưỡng cha mẹ chồng. Vậy nếu kiện ra toà tài sản thừa kế sẽ được chia như thế nào?
Bạn không nói tài sản này là tài sản riêng của chồng hay tài sản chung của vợ chồng bạn. - Nếu trường hợp chồng bạn không để lại di chúc thì di sản sẽ được chia cho những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Bố mẹ chồng cũng thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên cũng được một phần di sản thừa kế. Do bố ông bà mất cũng phát sinh quyền hưởng thừa kế cho các con bà bao gồm con ruột do đó họ đòi chia phần di sản thừa kế được hưởng từ ông bà cũng có cơ sở. - Nếu chia thừa kế theo luật : tài sản riêng chồng bạn chia cho hàng thừa kế thứ nhật gồm: vợ, 2 con , cha, mẹ ruột mỗi người được 1/5 giá trị di sản thừa kế từ chồng bạn.
Chào các Luật sư! Cho em xin hỏi tình huống của gia đình em xin các luật sư tư vấn giúp em các bước tiến hành như thế nào cho đúng vì gia đình em giờ bối rối các bên quá mà việc giỗ vải thì cũng xa lánh lần hết!  Tình huống như thế này : Bà Ngoại em sinh ra: là 1 nam + 1 nữ, sau đó bà gặp ông ngoại em và chuyển về Gia Lai sống sinh ra 5 người con gái (hiện tại còn sống 4 người và mẹ em đã mất). Sau đó ông ngoại mất , các dì lấy chồng , chỉ còn lại dì đầu ko chồng có 2 người con gái. Sau đó bà ngoại mất (cách đây 3 năm), Dì đầu sau khi đã bán bớt 1 phần đất trong nhà và có cầm sổ vay tiền ngân hàng (lúc bà ngoại còn sống), nghe đâu sau khi bà mất thì các dì còn lại đã lấy sổ về, giờ dì lớn tiếp tục cho thuê đất và nhà chính và rất có khả năng bán. Vậy cho em hỏi: Để muốn giữ lại nhà từ đường thì phải làm sao? Nói về cháu thì em là cháu trai đầu tiên của ông bà ngoại (ngoại trừ 2 chị gái con dì đầu tiên) nên em muốn giữ lại để có chỗ cúng dỗ ông bà sau này vì ông ngoại ko có con trai! Còn nếu muốn khởi kiện để phân chia tài sản ra theo đúng pháp luật thì nên làm như thế nào? (vì ông bà mất ko có di chúc) Và trường hợp của em có được tham gia ko? (vì mẹ em đã mất ) Nếu muốn khởi kiện thì các dì còn lại cần làm những thủ tục gì cần thiết để đưa ra chia tài sản theo đúng pháp luật và lệ phí cho phiên tòa theo luật có nhiều ko ạ? Rất mong được các luật sư tư vấn giúp! Xin chân thành cảm ơn!
​1. Theo thông tin bạn nêu thì nhà đất mà dì bạn đang sử dụng là di sản do ông bà để lại chưa chia và không có di chúc. Vì vậy, di sản này sẽ thuộc về hàng thừa kế thứ nhất của ông bà bạn theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005. Nếu mẹ bạn chết trước hoặc chết cùng với ông bà bạn thì anh, chị em bạn sẽ được thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 677 Bộ luật dân sự. 2. Bạn có thể giử đơn tới UBND xã để được hòa giải. Nếu hòa giải không thành thì một trong các thừa kế của ông bà bạn có thể khởi kiện tới tòa án nơi có nhà đất đó để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. 3. Bạn lưu ý là thời hiệu khởi kiện tranh chấp thừa kế là 10 năm kể từ ngày người có di sản mất. Nếu quá thời hạn trên mà không có đơn khởi kiện thì sau này tòa án cũng không giải quyết tranh chấp về thừa kế nữa.
Tôi có vụ việc như sau, không biết hướng giải quyết như thế nào Vào tháng 03/2009, 03 người gồm Ông  A, Bà B và Bà C có chung tiền để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại ấp 4 xã Đông Thạnh huyện Hóc Môn tp. Hồ Chí Minh từ Bà M. Diện tích đất chuyển nhượng 2.229 m 2 thuộc tờ bản đồ số 09 Bộ địa chính xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn. Giá chuyển nhượng là 1.200.000 đ/m 2 . 03 người A,B,C đã đặt cọc với số tiền như sau: -        Ông A đặt cọc: 500 triệu đồng (có giấy biên nhận). -        Bà B đặt cọc:  200 triệu đồng (có giấy biên nhận ngày 20/3/2009) -        Bà C đặt cọc   :  500 triệu đồng (có giấy biên nhận ngày 24/3/2009) Theo yêu cầu của Bà M, ngày 08/12/2010 Ông A có thanh toán thêm số tiền mua đất là 750 triệu đồng. Tổng cộng số tiền  đã thanh toán là 1.950.000.000 đ (một tỷ chín trăm năm mươi triệu đồng) . Theo thoả thuận trong Hợp đồng sau khi nhận tiền cọc bà M tiến hành thủ tục sang tên cho bên mua, tuy nhiên bà M không thực hiện. Sau nhiều lần yêu cầu nhưng Bà M không thực hiện thủ tục sang tên. Phía bên mua đã gửi đơn đến chính quyền địa phương là ấp 4 xã Đông Thạnh và UBND xã Đông Thạnh yêu cầu hoà giải nhưng cả 02 lần đều hoà giải không thành. Vì vậy ngày 25/10/2011 bên mua đã khởi kiện bà Hoa tại TAND huyện Hóc Môn, yêu cầu bà M hoàn tất thủ tục mua bán nhà. Ngày 22/6/2012 Toà án nhân dân huyện Hóc Môn đã ra Quyết định số 01/2012/QĐDS-BTHHV buộc các đương sự thực hiện qui định về hình thức giao dịch dân sự, cụ thể tiến hành công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Phía bên mua đã nghiêm chỉnh chấp hành Quyết định của Toà, đã thông báo mời Bà M đến Phòng công chứng số 4 để thực hiện công chứng Hợp đồng chuyển nhượng nhưng Bà M đã không đến. Nay xin phép được hỏi bên mua yêu cầu bên bán trả lại tiền đã nhận và bồi thường thiệt hại hay trả lại tiền đặt cọc. Trong biên bản đặt cọc nhận tiền có ghi bên bán không mua thì phải trả gấp đôi tiền cọc. Việc bồi thường sẽ yêu cầu dựa trên cơ sở pháp lý nào? Rất mong nhận được sự tư vấn của luật sư Trân trọng cám ơn
Căn cứ quy định pháp luật hiện hành và nghị quyết của hội đồng thẩm phán,với trường hợp trên do không còn ở giai đoạn đặt cọc, mà bên mua đã ttiến hành thanh toán những đợt tiếp theo. Vì vậy với trường hợp trên thông thường Tòa sẽ tuyên hợp đồng vô hiệu về hình thức, bên bán trả lại tiền và bồi thường thiệt hại cho bên mua. còn việc xác định yếu tố lỗi tùy thuộc từng thẩm phán theo tỉ lệ thường là 5-5. Ví dụ thửa đất trên lúc thỏa thuận mua có giá là 3 tỉ, đã thanh toán 1,95 tỉ tương ứng là 65%, nay giả sử giá tại thời điểm tòa xét xử theo kết quả định giá là 4 tỉ. tức phần chênh lệch tăng 1 tỉ. Thì thông thường Tòa sẽ tuyên như sau: Bên bán trả lại 1,95 tỉ, bồi thường 65% X(giá mới - giá cũ)X tỉ lệ1/2 = 325 triệu Như vậy tổng số tiền bên bán phải trả cho bên mua là 1.950.000.000 + 325.000.000 = 2.275.000.000 đồng
Tôi xin trình bài sự việc như sau: Vào năm 2003 tôi có thực hiện hợp động chuyển nhượng QSDĐ diện tích 4.650 m2 khi mua bán có nhờ cán bộ địa chính xã đo dạt diện tích thực tế là 4.650 m2 hai bên thông nhất việc mua bán (một bên giao đất, 01 bên giao tiền) có xuống trụ đá, bờ ranh rõ rành, đến nay đã trên 13 năm không phát sinh tranh chấp, nay phát hiện thiếu 200 m2 so với diện tích mua ban đầu còn 4.460 m2  bên mau đòi bồi thường. Tôi phải làm sau? Hợp đồng mua bán có giá trị bao nhiêu năm? Nay phát sinh sự việc nêu trên tôi có phải bồi thường k? Nhờ Luật sư tư vấn giúp đỡ.
- Nếu tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất liên quan tới quyền và nghĩa vụ của các bên (không phải là yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu) thì không tính thời hiệu khởi kiện, các bên có thể khởi kiện bất cứ lúc nào. - Nếu trong hợp đồng thỏa thuận một diện tích chuyển nhượng cụ thể, giá trị chuyển nhượng tính theo m2 nhưng khi giao đất lại thiếu diện tích thì bên nhận chuyển nhượng có quyền khởi kiện để yêu cầu bàn giao tiếp diện tích đất còn thiếu. - Nếu việc chuyển nhượng không tính theo m2 mà tính theo cả lô, cả thửa... việc sai sót diện tích do đo đạc thì nay không đòi thêm diện tích đất còn thiếu được nữa.
Nhà em có bán một mảnh đất cho một người. Vợ chồng chú ấy, mua, làm hợp đồng, đặt cọc tiền với ông bà em (ngoài 70 tuổi), mẹ em và cô em hoàn toàn không biết, không kí vào hợp đồng bán đất của ông bà và chú. Mẹ em chưa tách hộ, sống với ông bà em, mẹ em là lao động trụ cột trong gia đình, cô đã ra ở riêng. Mảnh đất thuộc quyền sở hữu của ông bà. Nay nếu mẹ em và cô em muốn hủy hợp đồng mua bán (trả tiền cọc) mà người mua cương quyết không chịu, dù ông bà em đã đích thân tới nhà thương lượng. Nếu vậy thì gia đình em có phải trả khoảng phí phá cọc hay không?
Đất thuộc sở hữu của ông bà bạn vì vậy các người khác bao gồm mẹ, cô, chú dì... không có quyền lợi gì ở mảnh đất đó cả. cho nên mẹ bạn và cô bạn không có quyền được hủy hợp đồng mua bán đó. chỉ có ông bà bạn mới có được quyền này, tuy nhiên khi làm như vậy sẽ phải trả lại tiền cọc và chi phí phạt cọc, chi phí phạt cọc có thể do hai bên thỏa thuận trường hợp hai bên không thảo thuân thì theo quy định khoản 2 điều 358 BLDS "2. Trong trường hợp hợp đồng dân sự được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác"
Ông Q (bố tôi) và H (chú tôi) là 2 anh, em ruột của dòng họ Phạm. Bố tôi có vợ là M và con là tôi, chú H có vợ là P và con là A. Trước khi qua đời, ông bà nội tôi (tức bố, mẹ của ông Q và ông H) có để lại toàn bộ phần tài sản là giá trị quyền sử dụng 500m2 đất tại quận Hà Đông. Cách đây 1 tuần, chú H đến nhà tôi và gặp được mẹ tôi (M) đang ở nhà, chú H trình bày việc muốn chuyển nhượng quyền sử dụng đất này cho công ty TNHH Phương Hà và chia đôi khoản tiền đó trong khi bố tôi (Q) đang nằm ngủ trên tầng vì say rượu từ tối hôm trước. Tuy nhiên, mẹ tôi đã từ chối yêu cầu của chú H vì cho rằng đây là đất tổ tiên, ông cha nên không muốn bán mà để lại cho con, cháu. Chú tôi liền chìa tờ giấy có ghi rõ nội dung chú (H) được bố tôi (Q) ủy quyền mua bán mảnh đất cho mình và lập luận với mẹ tôi rằng: đất là của dòng họ Nguyễn nên các con dâu không có quyền đồng ý hay không, bên cạnh đó, chú H đã được bố tôi ủy quyền toàn bộ cho việc bán mảnh đất này nên chú có toàn quyền quyết định. Mẹ tôi xem giấy và quả quyết: Bố tôi ko bao giờ làm như vậy mà ko bàn bạc với mẹ, đồng thời nhấn mạnh tối hôm trước bố tôi đi đám cưới với chú H về say khướt ko biết gì. Nên tờ giấy này ko có giá trị pháp lí. Tôi xin hỏi: Chú H có quyền làm như vậy không? Vì sao?
Hợp đồng uỷ quyền là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên được uỷ quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên uỷ quyền, còn bên uỷ quyền chỉ phải trả thù lao, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Tuy nhiên, cho dù bố của bạn ủy quyền cho chú H chuyển nhượng hoặc tặng cho thửa đất cho chú H hoặc người thứ ba thì chưa chắc chú H có thể thực hiện được việc này. Bởi vì: Thứ nhất: Theo khoản 5 Điều 144 Bộ Luật dân sự năm 2005 quy định về Phạm vi đại diện: "Người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác" . Như vậy, ông H không được thực hiện việc chuyển nhượng hoặc tặng cho thửa đất với chính ông H. Thứ Hai: Theo khoản 2 Điều 588 Bộ Luật dân sự năm 2005 quy định về Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng uỷ quyền: "Trong trường hợp uỷ quyền không có thù lao, bên được uỷ quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên uỷ quyền biết một thời gian hợp lý" . Như vậy, nếu bố của bạn trong lúc say rượu có ký hợp đồng ủy quyền cho chú H đem thửa đất ra giao dịch thì nay bố của bạn cũng có thể đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng uỷ quyền để ngăn chặn chú H giao dịch đối với thửa đất.
Kính nhờ luật tư vấn dùm em tình huống sau:  Nhà em có thiếu nợ đại lý phân bón, do mua phân thuốc của đại lý này và do thu hoạch lỗ nên không có khả năng chi trả,với số tiền nợ khoảng 350 triệu đồng nhưng trong số tiền này là nhà em có gánh dùm những người khác. Trong đó nhà em khoảng 200tr còn 2 người kia khoảng 150tr, mỗi người có sổ ghi nợ riêng. Nên vào năm 2012 nhà em quyết định cho chủ nợ thuê đất nhà em trong vòng 10 năm để thanh toán hết số nợ trên (kể cả nợ gánh dùm). Có hợp đồng thuê đất nhưng không có công chứng gì hết chỉ do 2 bên thỏa thuận..thuê được 1 năm thì do có những mâu thuẩn nên nhà em định lấy lại để làm. Do vậy,nên bây giờ bên thuê muốn đem vụ việc ra tòa án để giải quyết. Em không biết là sẽ ra sao. Nhà em là nông dân nên khổ lắm,mong các luật sư giải đáp dùm cho em. Em xin chân thành cảm ơn!
Theo quy định của pháp luật thì việc cho thuê quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng và phải được đăng ký theo quy định pháp luật (Điều 705 Bộ luật dân sự). Gia đình bạn cho thuê quyền sử dụng đất thời hạn 10 năm nhưng không công chứng hợp đồng, không đăng ký là vi phạm về hình thức và thủ tục theo quy định pháp luật. Nếu có tranh chấp hợp đồng thuê đất đó thì Tòa án sẽ dành thời gian để hai bên thực hiện thủ tục đăng ký. Nếu hai bên không thực hiện thì Tòa án sẽ tuyên bố hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự: Hợp đồng không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên; Các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; Bên nào có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Em chưa hiểu khi giao dịch mua đất thổ cư,trường hợp nào bắt buộc các thành viên gd bên bán phải ký vào HD chuyển nhượng?và có bắt buộc về độ tuổi không ạ?
- Theo quy định pháp luật thì chủ sở hữu tài sản hoặc người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền có quyền định đoạt tài sản (bán, chuyển nhượng...); - Nếu nhà đất đó là tài sản chung của hộ gia đình thì tất cả các thành viên trong "hộ" gia đình đó phải tham gia giao dịch (theo quy định của bộ luật dân sự thì người từ 15 tuổi trở lên có quyền ký kết thực hiện hợp đồng dân sự). - Nếu nhà đất là tài sản chung của vợ chồng có trong thời ký hôn nhân thì dù đứng tên một người thì vẫn bắt buộc cả hai vợ chồng cùng phải tham gia ký kết, thực hiện hợp đồng.
Anh Sơn làm công nhân cho một đơn vị mới thành lập từ năm 2002, nhưng đến năm 2004 doanh nghiệp mới cho đóng BHXH. Trong giai đoạn 2002-2004 anh Sơn ký hợp đồng thời vụ 3 tháng/ lần và trong hợp đồng doanh nghiệp có ghi rõ sẽ trả 17% BHXH và BHYT vào trong tiền lương nhưng trên bảng lương không thấy ghi số tiền này. Tổng số tiền tại thời điểm năm 2004 mà doanh nghiệp chưa trả cho anh Sơn là 23 tháng, tương đương 2,6 triệu đồng. Đến nay khi anh Sơn làm thủ tục để nghỉ hết tuổi lao động thì mới phát hiện ra và có đề nghị doanh nghiệp nộp đủ số tháng còn thiếu vì nếu không nộp thì anh Sơn sẽ không đủ điều kiện về hưu. Tuy nhiên, BHXH đã trả lời là không thể đóng lại thời gian trước đó được, do đó anh Sơn yêu cầu doanh nghiệp phải bồi thường chi phí mà doanh nghiệp đã không nộp BHXH,BHYT cho anh. Vậy xin hỏi, nếu anh Sơn muốn đề nghị như vậy thì phải căn cứ vào quy định nào, số tiền đòi bồi thường là bao nhiêu, theo quy định nào. Xin nói thêm hiện tại anh Sơn đang phải đóng BHXH cho một doanh nghiệp khác tiếp tục thêm 2 năm nữa để có thể về hưu. Liệu anh Sơn có thể đòi doanh nghiệp bồi thường theo chi phí đóng BHXH,BHYT hiện tại mà anh đang phải đóng để được về hưu không?
Trường hợp này doanh nghiệp đã trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH cho người lao động và viện lý do này lý do khác , do đó anh phải khởi kiện ra Tòa án nơi DN đặt trụ sở để buộc DN phải đóng bổ sung BHXH cho anh để anh đủ thời gian đóng BHXH và đủ tuổi về hưu được lãnh lương hưu hàng tháng.
Gia đình tôi có đăng ký mua 1 lô đất dự án. Khi chúng tôi đăng kí mua thì khu đất vẫn chưa được giải tỏa. Chúng tôi đã đặt cọc 70% giá trị lô đất. Khi đó công ty đã làm cho chúng tôi 1 hợp đồng vay vốn thời hạn 1 năm, lãi suất 0% và 1 hợp đồng giao kết chúng tôi sẽ được mua lô đất đã đăng ký khi dự án được hoàn thành. Trong hợp đồng không có quy định thời gian hoàn thành dự án. Chúng tôi có đến gặp nhân viên công ty hỏi về tiến độ dự án, lần đầu thì họ nói chỉ 3 tháng nữa là giao đất, lần thứ 2 lại nói cuối năm giao đất. Nhưng hiện tại đã 3 năm rồi mà dự án vẫn chưa thấy triển khai. Tôi muốn hỏi chúng tôi có được thanh lý hợp đồng này không, tôi phải làm những thủ tục gì?
Như bạn trao đổi, được hiểu bạn đã ứng trước một khoản tiền cho doanh nghiệp để sau này được hưởng quyền lợi là bạn sẽ được mua một lô đất khi dự án của doanh nghiệp này được triển khai. Việc ứng tiền được lập văn bản theo hình thức hợp đồng cho mượn tài sản (tiền) có thời hạn 01 năm. Hiện tại, nếu bạn mong muốn được thanh lý hợp đồng, nhận lại tiền về, bạn nên xem xét ký hợp đồng vay tiền để chắc chắn thời hạn cho vay là 01 năm, quá hạn này bạn có quyền đòi tiền và yêu cầu được tính lãi suất sau khi hết hạn vay. Nếu doanh nghiệp không chấp thuận yêu cầu đòi tiền của bạn thì bạn có thể khởi kiện ra tòa án nơi doanh nghiệp có trụ sở chính để đề nghị tòa án thụ lý giải quyết, bảo vệ quyền lợi của mình. Trường hợp bạn vẫn mong muốn được nhận quyền lợi là một lô đất thì nên làm việc trực tiếp với người có thẩm quyền của doanh nghiệp để xác định bằng văn bản thời gian dự kiến bạn được nhận đất, giá trị thửa đất, việc khấu trừ tiền vay vào việc thanh toán tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, phạt nếu vi phạm thời hạn giao đất. Việc xác lập bằng văn bản những nội dung này là cơ sở để sau này nếu doanh nghiệp không giao đất cho bạn đúng thời hạn, bạn có quyền khởi kiện ra tòa án thu hồi tiền về và yêu cầu phạt hợp đồng.
Công ty tôi đang chuẩn bị ký hợp đồng với một doanh nghiệp nước ngoài (trụ sở ở nước ngoài, có văn phòng tại Hà Nội) để cung cấp dịch vụ viễn thông (cụ thể là dịch vụ Internet), tuy nhiên VPĐD sẽ không ký mà chúng tôi phải ký trực tiếp với công ty mẹ ở nước ngoài. Công ty nước ngoài này sẽ thanh toán cho chúng tôi, mọi quyền lợi và nghĩa vụ sẽ do họ đứng ta giải quyết và họ yêu cầu ghi tiền cước bằng đô la Mỹ, cụ thể: 1. Hợp đồng ghi chủ thể khách hàng là Công ty A có đại chỉ tại nước ngoài, văn phòng đại diện tại Hà Nội. 2. Giá trị hợp đồng: Ghi bằng tiền Việt, sau đó có một dòng chuyển đổi sang tiền USD và phát hành hóa đơn bằng USD gửi đến Công ty A để công ty này thanh toán (chúng tôi có thể xuất hóa đơn bằng USD). Ngoài ra Công ty này còn yêu cầu nếu có tranh chấp xảy ra sẽ phân xử tại Trong tài quốc tế ở Singapore. Trường hợp chúng tôi đề nghị chọn xử lý tranh chấp tại Trọng tài quốc tế của Việt Nam ở Hà Nội thì đơn vị này có đủ chức năng để xử lý được không hay chúng tôi sẽ phải yêu cầu xử lý tranh chấp tại Tòa Hà Nội.
Về nguyên tắc doanh nghiệp của bạn có quyền được ký các hợp đồng với đối tác trong và ngoài nước để phục vụ hoạt động của doanh nghiệp nên Công ty bạn hoàn toàn có quyền ký hợp đồng này. Thứ hai toàn bộ hợp đồng này được thực hiện tại Việt Nam, phát sinh hơp đồng cũng ở Việt Nam, vì vậy theo quy định của pháp luật Việt Nam Hợp đồng thương mại này phải được lập bằng hai ngôn ngữ là Tiếng Việt và Tiếng Anh. Đồng tiền thanh toán trong Hợp đồng này phải là tiền Việt Nam đồng, giá trị của hợp đồng cũng phải thể hiện theo đơn vị tiền Việt đương nhiên các bên có thể quy đổi ra USD để thuận tiện cho việc thanh toán. Thứ ba về việc giải quyết tranh chấp nếu có; đây là hợp đồng thương mại của hai thương nhân - thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài nên các bên có thể lựa chọn phương pháp giải quyết tranh chấp nếu có bằng cơ chế trọng tài thương mại. Công ty bạn và đối tác phải có thỏa thuận trọng tài trong Hợp đồng thương mại và lựa chọn Trung tâm trọng tài nào là quyền của các bên, nếu bạn lựa chọn Trung tâm trọng tài tại Việt Nam cũng hoàn toàn hợp lý. Trường hợp này tốt nhất nên lựa chọn Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tại Hà Nội để thuận tiện trong việc tham gia vụ việc nếu phát sinh tranh chấp thương mại.
Mấy năm trước, Gia đình em có nằm trong khu vực mà tập đoàn quy hoạch và sau đó được "cấp" cho vài nền trong KDC hiện tại. Lúc đó, bên Chủ Đầu tư có yêu cầu đóng phần trăm theo tiến độ hạ tầng mới cấp sổ, lúc đó thì nhà em mới đóng 30 %, do đang cần chi phí trang trải nên có ký HĐMB với bên Chủ Đầu tư  tại VPCC trên huyện cho bên Chủ Đầu tư 1 nền  và đã nhận tiền luôn. Hôm qua, bên chủ tư có nhờ gia đình em ra ký hộ lại HĐ gì đó nữa ( em chưa hỏi kỹ). Em muốn hỏi: 1. HĐMB trong trường hợp ký này có khác gì với mấy HĐMB khác ko? 2. Tại sao lại phải ký lại HĐ nữa ? trong khi gia đình em đã bán hẳn vào thời gian trước rồi? Ký như vậy có sao không? Vì Sao?
Việc này em cần kiểm tra lại chính xác trước đây ký hợp đồng gì nhé. Thông thường khi chưa bàn giao mặt bằng hoặc đã bàn giao mặt bằng cho người sử dụng đất nhưng người sử dụng đất chưa được cấp giấy chứng nhận, các bên có thể lập hợp đồng ủy quyền. Việc ủy quyền không làm thay đổi thông tin hồ sơ thửa đất - tức là gia đình em vẫn sẽ là người được cấp giấy chứng nhận cho thửa đất đó mặc dù họ là người đang sử dụng thửa đất. Có thể giờ là lúc cơ quan chức năng đã cấp giấy chứng nhận cho thửa đất này nhưng vẫn đang mang tên của gia đình em vì vậy họ mới đề nghị gia đình em đi ký lại hợp đồng và Hợp đồng lúc này là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Dear Luật sư, Cho em hỏi chút về việc ký kết hợp đồng giữa cá nhân không có đăng ký kinh doanh với một doanh nghiệp chuyên cung cấp dịch vụ. Liệu hợp đồng này có được xem là hợp đồng hợp lệ không ạ? - Nếu hợp đồng này là hợp lệ, vậy có cách nào để cá nhân đó có thể chứng minh giá trị và bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ của mình đã được ghi trong hợp đồng (không chỉ ngoài việc ký và ghi rõ họ tên của mình), bởi vì bình thường nếu một doanh nghiệp hay cá nhân đã đăng ký kinh doanh thì sẽ được một tổ chức có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh và con dấu, khi đó với hợp đồng có nhiều hơn 01 trang thì sẽ có dấu giáp lai trên tất cả các trang, như vậy sẽ tránh được trường hợp bên còn lại có thể thay đổi nội dung của hợp đồng. Còn với một cá nhân không có giấy phép kinh doanh thì sẽ khó khăn và bất lợi hơn nếu hợp đồng chỉ được ký và ghi họ tên (chưa tính đến chữ ký có thể giả mạo). - Nếu hợp đồng không hợp lệ, vậy có cách nào (thay cho việc ký kết hợp đồng) để ghi nhận việc hợp tác giữa một doanh nghiệp với một cá nhân không có giấy phép đăng ký kinh doanh đó? Và là bằng chứng trong quyết toán tài chính giữa hai bên hay không ạ? Trên đây chỉ là quan điểm cá nhân. Xin vui lòng tư vấn giúp tôi về trường hợp này được không ạ?
Đối với những trường hợp này cũng có nhiều quan điểm tranh luận nhưng xét từng trường hợp cụ thể mà có thể xử lý như sau: Trước hết nếu doanh nghiệp đó là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và cá nhân họ muốn sử dụng dịch vụ và ký hợp đông sử dụng dịch vụ thì vẫn hoàn toàn hợp pháp vấn đề em quan tâm là liệu họ có giả mạo chữ ký hay không việc này khi ký hợp đồng đương nhiên các bên phải kiểm tra thông tin của đối tác, không có chuyện đưa hợp đồng cho ông A nhưng người ký vào hợp đồng lại là ông B được. Về phía doanh nghiệp đương nhiên phải có hồ sơ doanh nghiệp như em nêu, còn với cá nhân là các thông tin, giấy tờ chứng minh nhân thân của họ như hộ khẩu, chứng minh nhân dân... Trường hợp hai bên ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với nhau, hoặc hợp đồng góp vốn của cá nhân đó vào doanh nghiệp hoặc hợp đồng vay tài sản.... hai bên nếu không tin tưởng nhau hoàn toàn có thể nhờ đến một cơ quan, một bên thứ ba làm chứng và chứng nhận giao dịch đó. Việc hạn chế những rủi ro có thể phát sinh từ việc ký kết hợp đồng này thì mỗi trường hợp cụ thể lại có thể có những cách khác nhau.
Việc mua bán đất năm 2011 cho bên A có anh C làm chứng. trong lúc chúng tôi( Bên B) cần bán đất để nuôi con ăn học.   Đến tháng 6 năm 2014 vợ chồng tôi nhận được đơn của toàn án ND huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh phúc là việc mua bán đất diễn ra giữa 02 bên là vô hiệu.   Việc mua bán đất diễn ra tại nhà tôi. trước khi mua chúng tôi đưa cho A gồm 01 phiếu thu, và 02 hóa đơn nộp tiền ra kho bạc nhà nước và nói với A là đất chưa có ô, thửa, phải chờ UBND xã Hướng Đạo khi nào cấp ô thửa thì sẽ sang tên đổi chủ và chưa có sổ đỏ.  Sau khi thống nhất thỏa thuận, và chấp nhận. Bên A đọc cho bên B viết giấy đặt cọc và bên C là người làm chứng kí cùng với A và B vào giấy đặt cọc. Nội Dung: " 50 triệu tiền đặt cọc nếu bên A đổi ý giam tiền đặt cọc mà không mua thì mất 50 triệu. bên B mà đổi ý thì mất 10 lần số tiền đặt cọc của bên A - vô thời hạn. sau khi trả nốt số tiền đất 02 bên đã đi ra UBND xã để được làm thủ tục mua bán đất. Chúng tôi đã được UBND xã Hướng Đạo đồng ý chấp thuận và làm đầy đủ thủ tục mua bán. đã đóng con dấu và chữ ký đầy đủ của UBND xã chứng thực. Vậy nay năm 2014, bên A đã làm đơn ra tòa để quyền giải quyết hợp đồng dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Trong ki bên B vẫn chờ sang tên cho bên A vẫn chưa nhận được thông báo gì giữa huyện và xã là mảnh đất đó đã bị thu hồi ( chỉ có bên A lấy được giấy tại huyện là Có quyết định thu hồi) .Sau nhiều lần tòa án tiến hành hòa giải yêu cầu bên B giả lại số tiền đã mua đất là 224 tr đồng cho bên A và phải gánh mức lãi suất phát sinh theo mức lãi suất của ngân hàng kể từ ngày 29 tháng 3 năm 2011 đến khi giải quyết xong vụ án. Bên B không đồng ý vì việc mua bán thỏa thuận và không chấp nhận số tiền gánh lãi vì bên B là người bán đất chứ không làm giấy vay nhận nợ. Bên B chưa được xã Hướng Đạo họp dân và chưa nhận được giấy thông báo quyết định mảnh đất đó là bị thu hồi để bàn cách giải quyết giữa dân và UBND xã.   Vậy tôi xin hỏi hợp đồng giữa tòa xử là vô hiệu có đúng không và tòa xử như thế có đúng không khi mà đã có nội dung đặt cọc trên? Trách nhiệm thuộc về xã, huyện hay người dân? và chúng tôi phải làm gì để đòi lại công bằng từ cơ quan thẩm quyền nào để đòi lại quyền sử dụng đất? và làm như thế nào để khiếu nại để lấy lại đất!  và số tiền lãi chúng tôi có phải trả không?
Trước hết đây là một quan hệ pháp luật dân sự liên quan tới chuyển nhượng quyền sử dụng đất, các cơ quan hành chính chỉ là người chứng nhận hoặc công chứng việc giao dịch này mà không có quyền lợi cũng như nghĩa vụ liên quan (nếu công chứng sai thì mới phát sinh trách nhiệm theo quy định của Luật công chứng), việc chứng thực ở xã của bạn có lẽ chỉ là chứng thực chữ ký. Về nguyên tắc hợp đồng này của gia đinh bạn có đủ cơ sở để tuyên vô hiệu vì theo quy định tại thời điểm gia đình bạn thực hiện giao dịch bắt buộc phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì giao dịch đó mới được công chứng và hợp đông chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ có hiệu lực khi được công chứng. Về hậu quả của hợp đồng vô hiệu hai bên hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận đồng thời nếu bên nào gây thiệt hai cho bên kia thì phải bồi thường. Xét thông tin bạn cung cấp thì trường hợp này toà xử như vậy có phần không hợp lý. Nếu bạn và gia đình không đồng ý với bản án thì có thể kháng cáo để xét xử vụ việc theo thủ tục giám đốc thẩm tại Toà án nhân dân cấp tỉnh. Khi xem xét vụ án theo trình tự phúc thẩm bạn và gia đình mới có điều kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Xin chào luật sư, cháu có một vấn đề cần luật sư giúp đỡ. Năm 1998 ông chú của cháu có bán lại cho cậu của cháu mảnh đất đứng tên ông, trên giấy tờ có ghi "chuyển nhượng phần đất cho cháu tôi là....". Cậu của cháu chưa sang tên chuyển quyền sử dụng đất mà vẫn tiếp tục đứng tên của ông chú và nộp thuế đầy đủ. Đến năm 2007, cậu cháu mua lại mảnh đất bên cạnh nhà bà A và gộp chung 2 mảnh lại để làm trích lục đứng tên cậu. Đến nay, vợ của ông chú bỗng nhiên kiện cáo đòi lại mảnh đất mà ông đã bán cho cậu năm 1998 với lý do lúc ông bán không có sự đồng ý của bà. Tuy nhiên, 2 nhà sống cách nhau chưa đến 5km, mặt khác 2 gia đình vẫn qua lại với nhau từ hồi bán đất đến giờ. Nếu bà không đồng ý bán thì khi phát hiện ra giao dịch mua bán của 2 người đã phải gửi đơn kiện chứ không phải đợi tới tận 16 năm như bây giờ. Vậy cháu muốn hỏi luật sư, trường hợp của cậu cháu có bị thu hồi đất để trả lại không ạ. Cháu xin cảm ơn luật sư!
Về nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng khi định đoạt phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng, có thể khi ký kết các văn bản chỉ có một người ký nhưng thực tế người không ký cũng đã thừa nhận và thụ hưởng giá trị của giao dịch đó rồi nên nhiều trường hợp cơ quan chức năng cũng sẽ không chấp thuận các yêu cầu khởi kiện. Theo quy định chung nếu yêu cầu của bà đó được tòa chấp thuận thì cậu của bạn có thể phải trả lại 1/2 diện tích thửa đất đã nhận chuyển nhượng của ông chú kia. Đó là về nguyên tắc, cơ bản mọi vấn đề còn phải được thể hiện bằng tài liệu hồ sơ vụ việc. Trường hợp hai bên không đạt được thỏa thuận với nhau thì bắt buộc sẽ phải giải quyết bằng một vụ án dân sự.
Năm 2013 tôi có mua một công đất  của bà Tư bằng 2,5 cây vàng (hai cây rưỡi vàng) . Bà Tư có viết giấy tay ( tức là tờ giấy thừa nhận bà Tư có bán đất cho tôi, có chữ ký giữa hai bên: người  bán và người mua, nhưng không có chữ ký của chính quyền địa phương). Là bà con thân tộc trong nhà, nên tôi tin tưởng, đưa một lượt đầy đủ số vàng cho bà Tư. Một thời gian sau, tôi yêu cầu bà Tư cùng tôi đi đến cơ quan địa chính ở xã để làm hợp đồng mua bán đất hợp lệ theo quy định của pháp luật và để pháp luật cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tôi. Nhưng tôi pháp hiện, bà Tư không có giấy chứng nhận quyền sử dụng công đất đó. Được biết, trước đó bà Tư mua công đất của ông Minh. Hiện tại thì giấy chứng nhận quyền sử dụng công đất đó đã được ông Minh vay ở ngân hàng. Nghĩa là công đất đó, vẫn còn thuộc quyền sở hữu của ông Minh. Vậy luật sư cho tôi hỏi: +Với tờ giấy tay như thế, liệu có giá trị pháp lí hay không? Có được pháp luật công nhận là hợp đồng mua bán đất hay không? Hay tôi phải mất cả tiền lẫn đất - nhận lại sự trắng tay? +Bây giờ bà Tư muốn chuộc lại đất và tôi cũng đồng ý cho bà chuộc lại số đất nói trên. Nhưng bà Tư chỉ chuộc lại với giá 2,5 cây vàng như lúc bán năm 2013  chứ không bằng giá cả  thị trường hiện nay. Như vậy, tôi phải chịu một khoản lỗ rất lớn, tôi không thể nào đồng ý.  Việc tôi làm vậy, là đúng hay sai? Tôi cho bà chuộc, nhưng với điều kiện, phải bằng giá hiện hành. Còn bà thì nhất định, chuộc với giá    hồi xưa. +Cứ day dưa thế mãi, rồi vàng, rồi đất, rồi sẽ được pháp luật xử lí ra sao? Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rồi đây sẽ thuộc về ai? Ông Minh đã bán cho bà Tư (ông nhận tiền nhưng không tách bộ cho bà), bà Tư lại bán cho tôi (nhận tiền, viết giấy tay và không tách bộ).
Căn cứ các quy định pháp luật hiện hành thì giấy tờ mua bán tay nói trên không có giá trị pháp lý, nếu phải tranh chấp buộc phải kiện ra tòa thì chắc chắn tòa không công nhận và chỉ buộc bà Tư trả lại tiền cộng với giá trị chênh lệch giữa giá hiện tại so với giá mua, và có xác định yếu tố lỗi, thông thường là như nhau. Giả sử giá hiện tại bây giờ là 3 cây vàng, giá trước đây là 2,5 cây vàng. Nếu tranh chấp thì tòa thường giaia quyết như sau, bà Tư trả lại 2,5 cây vàng và 50% chenh lệch tứ bồi thường thêm o,5 cây. Tuy nhiên việc tranh chấp như thế còn phải tốn rất nhiều chi phí khác như đo đạc, định giá, án phí rồi phí thi hành án, phí luật sư... và thời gian giải quyết có thể kéo dài 01 vài năm là chuyện bình thường, chưa kể lúc đó mất hết tình làng nghĩa xóm và chưa kể tới lúc giai quyết xong, giá trị đồng tiền bị trượt giá, bà Tư không còn tiền để trả thì gia đình bạn cũng không thể đòi được kể cả nhờ thi hành án. Vì vậy là chỗ gia tộc tôi nghĩ gia đình bạn nên lấy lại 2,5 cây vàng là cách tốt nhất !
Chào Luật Sư và các bạn. Công ty tôi hoạt động trong lĩnh vực cung cấp đồng phục và bhld tại Tân Uyên, Bình Dương Tháng 7 năm 2013 chúng tôi có nhận cung cấp đồng phục cho một doanh nghiệp cũng tại Tân Uyên, Bình Dương với tổng trị giá là hơn 80 triệu đồng. Thời gian thanh toán là 30 ngày sau khi nhận đủ hàng hóa cùng chứng từ giao nhận... Tuy nhiên đến thời hạn thanh toán DN này không thực hiện thanh toán và có hành vi trốn tránh trách nhiệm... đến ngày 21/12/2013 DN này gửi một văn bản với nội dung cty gặp khó khăn...và sẽ bắt đầu thanh toán từ tháng 03/2014...đến 05/03/2014 công ty ngày lại gửi một công văn tương tự và với nội dung ''không thể lên kế hoạch trong vòng sáu tháng tới''...đến ngày 4/8/2014 cty này lại gửi một văn bản thông báo sẽ thanh toán vào tháng 9/2014 với số tiền là 10% trổng trị giá. Kể từ khi đến hạn thanh toán đến nay (27/09/2014) chúng tôi đã liên hệ, thông báo nhiều lần yêu cầu thanh toán và không chấp nhận bất cứ lý do gì nhưng cty này vẫn không hợp tác, tìm mọi cách cản trở và trốn tránh. Trong thời gian trốn nợ trên cũng với hành vi tương tự DN này tiếp tục ký hđ với một số cty khác trong đó có cty cung cấp đồng phục khác với trị giá hơn 150 triệu đồng và dĩ nhiên là lại trốn nợ... Xét thấy đại diện cty này có hành vi trốn tránh và lừa đảo chiếm đoạt tài sản...chúng tôi cùng đối tác cung cấp đp kia cùng làm đơn khởi kiện. Xin luật sư vui lòng tư vấn. 1. Trong trường hợp này chúng tôi sẽ khởi kiện tại tòa án nào'' trong hợp đồng không nêu cụ thể''. 2. Chúng tôi có thể gửi đơn tố cáo đến cơ quan công an nào để điều tra sự việc hay không? 3. Chúng tôi có được công khai danh tính, tình trạng nợ ...của cty này đến cơ quan báo chí, trên Website của chúng tôi không? Rất mong sớm nhận được hồi âm của Luật Sư cùng các cộng sự và các bạn. Trân trọng ./.
Thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi có trụ sở của bị đơn nên nếu bạn khởi kiện thì Tòa án huyện Tân Uyên có thẩm quyền giải quyết. Đây là tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại nên không có yếu tố hình sự ở đây Cty bạn có quyền đưa thông tin nhưng không được xúc phạm, hạ thấp uy tín... tổ chức, cá nhân khác
Nhà tôi có một thửa đất, sau khi me tôi qua đời đột ngột không để lại di chúc, Anh tôi tự động làm hợp đồng cho người khác thuế mà không được sự ủy quyền của Anh Em trong gia đình mà chỉ có chữ ký của 02 người và xác nhận của chính quyền địa phương ( Phường) nơi cư trú vậy hợp đồng này có hợp pháp không?
Hợp đồng như bạn nói là vô hiệu vì: 1. Về hình thức không được công chứng hoặc chứng thực hợp pháp 2. Về nội dung không được các đồng chủ sử dụng hợp pháp quyết định (trong đó có các bạn là người thừa kế và là chủ sử dụng hợp pháp). Dưới đây là một số quy định của Bộ luật Dân sự Điều 221. Chiếm hữu tài sản chung Các chủ sở hữu chung cùng quản lý tài sản chung theo nguyên tắc nhất trí, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Điều 222. Sử dụng tài sản chung 1. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. 2. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền ngang nhau trong việc khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung, nếu không có thoả thuận khác. Điều 223. Định đoạt tài sản chung 1. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. 2. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật. 3. Trong trường hợp một chủ sở hữu chung bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua. Trong thời hạn ba tháng đối với tài sản chung là bất động sản, một tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác. Trong trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua thì trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua, chủ sở hữu chung theo phần trong số các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu Toà án chuyển sang cho mình quyền và nghĩa vụ của người mua; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại. 4. Trong trường hợp một trong các chủ sở hữu chung từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc Nhà nước, trừ trường hợp sở hữu chung của cộng đồng thì thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu chung còn lại.
Tôi là nhân viên hợp đồng ngắn hạn trong trường học tại huyện Lạc Thủy - Hòa Bình Xin cho tôi hỏi tôi có được huyện đóng BHXH trong khoảng thời gian làm việc không. Trong khoảng thời gian nghỉ hè tôi muốn đóng nối bảo hiểm thì làm thế nào và mức đóng là bao nhiêu. Mức lương chúng tôi hiện đang được trả là 1.150.000đ ngoài ra không có khoản nào thêm có đúng không. Bảo hiểm y tế của chúng tôi chỉ được tính trong 9 tháng hợp đồng hay được tính cả năm. tôi thấy cứ hết 9 tháng hợp đồng là chúng tôi lại bị thu lại BHYT còn 3 tháng hè chúng tôi không có bảo hiểm Xin trả lời giúp tôi!
Chào bạn. Nếu có giao kết hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên là phải tham gia BHXH bắt buộc vì đó là quy định (trừ khi người lao động đã tham gia BHXH bắt buộc nơi khác). Đặc thù ngành giáo dục là có thời gian 3 tháng hè nên thời gian này không có lương thì không tham gia BHXH.
Chào luật sư, Hiện tại tôi đang làm việc trong 1 công ty phần mềm, với hợp đồng 1 năm. Do mức thu nhập không cao, nên tôi quyết định chấm dứt hợp đồng. Và công ty yêu cầu tôi bồi thường thiệt hại cho dự án phần mềm mà tôi đang tham gia. Mặc dù tôi là 1 trong 2 người làm trên dự án đó, và hiện tại dự án chưa bị thiệt hại gì. Xin hỏi luật sư, điều đó có đúng luật không?
Nếu như trong trường hợp bạn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì theo quy định bạn sẽ phải bồi thường một khoản tiền cho chủ sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động. Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động không đúng quy định tại các điều 37, 38 và 39 của Bộ luật lao động. Điều 43 của BLLĐ 2012: Điều 43. Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật 1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động. 2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước. 3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này.
Em có mua chiếc xe máy củ của người a. giờ mất giấy dk xe. chỉ làm hd ủy quỳên nội dung là mua bán sử dụng tặng cho. rút hồ sơ ký và nhận giấy tờ liên quan. cho e hỏi là như vậy có thể báo mất cavet được không ạ?
Chào bạn, Theo ủy quyền bạn đang sử dụng và bị mất thì bạn khai báo mất là hợp lý. Trân trọng!
Nhà em có hợp đồng làm công làm 1 bẻ chứa nước nhưng sắp thi công thì bên B hủy hợp đồng vậy cho em hỏi bên em có được quyền bồi thường gì không? Em xin chân thành cảm ơn!
Trường hợp này gia đình em có thể khởi kiện một vụ án dân sự với người đã nhận thực hiện công việc này theo quy định của Bộ luật Dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có căn cứ chúng minh thiệt hại. Trường hợp hợp đồng có nêu rõ quyền và nghĩa vụ của các bên trong trường hợp chấm dứt hợp đồng thì giải quyết theo nội dung thỏa thuận của hợp đồng. Tuy nhiên gia đình em cũng nên cân nhắc tính hiệu quả và sự cần thiết phải khởi kiện trước khi quyết định nhé.
Kính chào Luật sư Tôi dự định cho người chị họ vay một số tiền không lãi suất, không có kỳ hạn . Tuy nhiên HĐ vay  có thoả thuận việc người vay phải trả nợ sau 6 tháng kể từ thời điểm nhận được văn bản yêu cầu trả nợ (Người vay đồng ý điều khoản này). Để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ, người vay đề nghị thế chấp cho tôi quyền sử dụng sạp kinh doanh tại chợ Bà Chiểu, có hợp đồng thuê và xác nhận Ban Quản Lý Chợ, có giấy đăng ký  kinh doanh. Tôi dự định công chứng HĐ vay và đăng ký giao dịch bảo đảm. Trường hợp trong thời hạn hiệu lực hợp đồng vay,bên vay muốn sang nhượng sạp thì  phải ưu tiên sang nhượng cho tôi để cấn trừ tiền vay. Sau 30 ngày tôi không trả lời hoặc không đồng ý nhận sang nhượng thì mới sang nhượng sạp cho người khác.  Xin hỏi Luật  sư trường hợp của tôi, các điều khoản trên có làm hợp đồng vô hiệu không? Cá nhân vay tiền lẫn nhau có thể thế chấp hoặc cầm cố tài sản là quyền tài sản được không? Bên vay đề nghị tôi cứ giữ HĐ thuê sạp và GD9KKD để đảm bảo trả nợ, như vậy tôi  có vu phạm pháp luật không? Xin cám ơn các luật sư
Chào bạn ! Tài sản thế chấp là quyền thuê mặt bằng kinh doanh theo hợp đồng thuê có thời hạn chứ không phải là bất động sản. Vì vậy việc thế chấp, đăng ký thế chấp khó mà thực hiện được vạn có thể liên hệ với Ban quản lý chợ để tìm hiể thêm về tính chất pháp lý và quyền của bên thuê cửa hàng. Vì vậy, bạn nên cân nhắc trước khi cho vay khoản tiền trên.
Xin chào Luật Sư! Em có 1 vụ mong A hướng dẫn, hiện tại E có 1 hợp đòng thuê nhà hạn là 5 năm, tiền là 75tr/năm nộp tiền thuê nhà từ 18-25/1, nhưng sau quá trình thuê, bên thuê nhà đã thuê và trả tiền đủ 1 năm là 75tr, sau đó sang năm thứ hai tức là thời gian hiện tại, phía thuê nhà đã chả được 50tr trong tổng số 75tr, và có biên bản bào giao tiền nhà. sau đó do khả năng kinh doanh ko đủ để chi chả. họ đã nói truyện với phía chủ nhà, và cả 2 bên đã có trao đổi, họ nhận lại nhà và chả lại số tiền mà chưa dủ dụng hết thời gian theo tiền là 50tr, sau khi bên thuê nhà bỏ chi phí tháo rỡ, sơn lại nhà theo như ban đầu, thì phía chủ nhà lại ko chịu nhận nhà và bắt bên thuê phải sử dụng cho tới khi hết số tiền trên, trong khi hợp đồng thuê nhà ko đúng vs pháp luật, đó là hợp đồng ko có công chứng, hay chứng thực, bản hợp đồng của bên thuê cầm lại ko có chữ ký của phía chủ nhà lẫn công chứng. Hiện tại Luật sư có thể cho E xin mẫu đơn để gửi lên cư quan chính quyền giải quyết đc ko email của E là: ketnoisun****@gmail.com E cảm ơn Luật Sư!
Chào haoquangsonla! Sự việc này là trường hợp chấm dứt hợp đồng thuê nhà trước thời hạn. Cụ thể là bên cho thuê nhà đang yêu cầu bên thuê phải thực hiện hết thời gian mà bên thuê đã trả tiền. Bên thuê không đồng ý. Trước hết hai bên cần căn cứ nội dung Hợp đồng thuê nhà để tự thương lượng giải quyết. Trường hợp muốn yêu cầu chính quyền địa phương tham gia giải quyết vụ việc thì cần có đơn. Nội dung của đơn phải có các thông tin về các bên tranh chấp, nội dung tranh chấp....
Chào luật sư! Nhờ luật sự tư vấn giúp em về điều kiện chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm và tiến hành thủ tục như thế nào? Chân thành cảm ơn!
Theo Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm, “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Hợp đồng bảo hiểm chịu sự điều chỉnh của Luật Kinh doanh bảo hiểm được phân thành ba loại là: hợp đồng bảo hiểm con người, hợp đồng bảo hiểm tài sản, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Sự khác biệt căn bản nhất giữa các hợp đồng bảo hiểm này là đối tượng được bảo hiểm và quyền lợi có thể được bảo hiểm.. Đối tượng được bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm con người là tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe và sự an toàn của con người. Đối tượng được bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản là tài sản, bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản. Đối tượng được bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba theo quy định của pháp luật. Quyền lợi có thể được bảo hiểm thực chất là mối liên hệ giữa bên mua bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm được xác lập dựa trên quan hệ hôn nhân, huyết thống, quan hệ tài sản, quan hệ lao động, quan hệ tài chính theo đó, sự rủi ro của đối tượng được bảo hiểm sẽ gây thiệt hại về tài chính hoặc tổn thất tinh thần cho bên mua bảo hiểm. Chính sự khác biệt về đối tượng bảo hiểm mà quyền lợi có thể được bảo hiểm của bên mua bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm nói trên cũng khác nhau. Theo Luật Kinh doanh bảo hiểm, trong hợp đồng bảo hiểm tài sản, quyền lợi có thể được bảo hiểm bao gồm: quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền tài sản. Trong hợp đồng bảo hiểm con người, quyền lợi có thể được bảo hiểm được quy định hạn chế hơn bao gồm 02 yếu tố: quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với người được bảo hiểm. Chuyển nhượng hợp đồng nói chung và hợp đồng bảo hiểm nói riêng là một trong những nội dung không thể thiếu được pháp luật điều chỉnh. Bản chất của việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm là việc một chủ thể khác sẽ thay thế vị trí pháp lý (kế thừa quyền và nghĩa vụ) của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng theo đó, người nhận chuyển nhượng sẽ trở thành bên mua bảo hiểm mới để tiếp tục duy trì hợp đồng và hưởng các quyền lợi khác (nếu có) theo hợp đồng.
Nhờ Luật sư tư vấn về Hợp đồng chuyển nhượng BĐS - Ông Nguyễn Văn A có thế chấp QSD đất và TSGLVĐ cho Ngân hàng (NH). Cùng thời điểm đó, Ông A ký ủy quyền cho NH với nội dung sau: 1. Bên NH được quyền và nhân danh Ông A toàn quyền quản lý, sử dụng, định đoạt, ký hợp đồng chuyển nhượng, cho thuê và mọi hợp đồng khác theo quy định của pháp luật. 2. Bên NH được thay mặt ông A quyết định về giá cả , phương thức thanh toán, kể cả việc nhận tiền do chuyển nhượng. Trong phạm vi ủy quyền, bên NH được liên hệ cơ quan nhà nước để tiến hành ký, nhận các thủ tục về hành vi đã nhận ủy quyền, được tự định đoạt mọi vấn đề liên quan đến nội dung nhận ủy quyền 3. Trong phạm vi ủy quyền, bên NH được quyền lập, ký tên trên các giấy tờ liên quan, thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp luật quy định có liên quan đến hành vi ủy quyền 4. Hợp đồng ủy quyền này không hủy ngang theo ý chí một bên. Nếu một trong hai bên muốn chấm dứt thực hiện hợp đồng này phải có sự đồng ý của bên kia, nếu không có sự đồng ý của hai bên mọi thay đổi đều không  có giá trị pháp lý. Về thời hạn ủy quyền: cho đến khi hoàn tất công việc Xin hỏi Luật sư: Trường hợp này, NH tự ý chuyển nhượng bất động sản trên cho người khác có đúng hay không khi Ông A không thanh toán nợ đúng hạn theo hợp đồng  Xin bổ sung thêm Hợp đồng ủy quyền được VPCC chứng nhận Xin chân thành cảm ơn
Bản chất của sự việc này là Ngân hàng đã xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng tín dụng giữa ông A với Ngân hàng. Ngân hàng phải thực hiên việc xử lý tài sản theo quy định chung là phải khởi kiện ông A sau đó mới có căn cứ xử lý tài sản ông A đã thế chấp. Nếu chỉ căn cứ hợp đồng ủy quyền ngân hàng đã chuyển nhượng cho người khác khi không có sự đồng ý, tham gia của ông A là không phù hợp với các quy định của pháp luật bạn nhé.
Bác tư vấn giúp cháu về vụ  việc này với.cháu bị một người bạn lôi kéo vào bán hàng đa cấp,  tên cty đó la vietnet, địa chỉ  so 252 hoàng quốc việt  , hà nội.cháu có ký hợp đông với công ty nhưng sau đó hợp đồng bị công ty giữ lại, chỉ cho cầm san phẩm về, mà trước khi cầm sản phẩm về thì nhân viên của công ty có bóc sản phẩm ra, mục đích là không cho cơ hội đổi trả sản phẩm, bây giờ cháu muốn hủy hợp đồng mà lại không có hợp đồng .cháu muốn lấy lại hợp đồng và không làm ở đó nữa.bác giúp cháu với! cháu xin chân thành cảm ơn!
Chào bạn! Bạn không có hợp đồng thì không thể khởi kiện tranh chấp dân sự được. Bạn chỉ có thể tố cáo hành vi lừa đảo của những người có liên quan đến công an quận Cầu Giấy để được xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.
Con chào luật sư Con tên Ngọc năm nay 24 tuổi. Con xin LS tư vấn giúp con về vấn đề này ạ. Vào tháng 6 năm 2013 con có vay tín chấp của Ngân Hàng (NH) với số tiền là 26.000.000. với hình thức là vay theo lương. Nhưng đến khoảng cuối cuối năm 2013 con thôi việc ở công và không có khả năng thanh toán hàng tháng cho NH. Ngân hàng có gởi thư thông báo, đt và có cho người đến làm việc với con. Nhưng do kinh tế khó khăn nên khoảng thời gian đó con chỉ thanh toán thêm được một 2 kỳ nữa thôi. Lúc đó ngân hàng có gởi cho con một tờ giấy có bảng kê số tiền phạt gì đó lên tới 51.000.000. Mà khi đó người làm việc với con ko phải là người của NH nữa vì NH đã chuyển HĐ của con qua bên cty giải quyết Công Nợ ạ. Và có trường hợp này nữa mong LS cho con hỏi, hộ khẩu của con là ở Đồng Nai vì chung với Ông Bà Ngoại con lúc vay tiền cho tới giờ thì con  thuê phòng trọ ở Tp.HCM. Thú thật với LS là khi con vay tiền thì gia đình con ko biết tại vì số tivà từ giữa năm 2014 đến nay thì con có chuyển chỗ ở, Con không có ý trốn tránh lúc đó số tiền lên tới 51.000.000 con có nhờ người mà làm việc với con xin với ngân hàng là cho con xin ngưng đừng tính thêm tiền phạt nữa nhưng bên đó không chịu. Và từ khoảng 6 tháng rồi con không nhận được thêm thông báo nào hết. Bây giờ con đã có việc làm có thể đóng cho NH. Nhưng vừa rồi người của NH có về tới Đồng Nai là nơi đăng ký hộ khẩu của con và đòi khởi kiện con. Vậy LS cho con hỏi là: 1. Gia đình con ( là người đứng tên trong sổ hộ khẩu) có bị ảnh hưởng gì ko ạ 2. Con có thể nào và làm gì để xin NH tính nhẹ số tiền phạt được ạ vì số tiền mượn là 26.000.000 nếu tính theo Hđồng thì đóng cho NH trong thời gian là 3 năm số tiền sẽ là 42.000.000 3. Như vậy thì con có bi đi tù không ạ Con rất mong LS tư vấn giúp con và chỉ con hướng giải quyết tại bây giờ con sợ lắm mà gia đình thì lại không đứng về phía con ( vì lúc vay tiền con đã giấu gia đình). Con chào Luật Sư
Chào bạn! 1. Việc vay tiền là giao dịch dân sự, nếu bên vay tiền không trả nợ đúng hạn thì bên cho vay có thể khởi kiện tới tòa án nơi bên vay cư trú để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Nếu bên cho vay có chứng cứ chứng minh về việc cho vay, bên vay không chứng minh được là mình đã trả hết nợ thì tòa án sẽ phán quyết buộc bên vay phải trả số tiền còn thiếu. Tiền lãi suất so hai bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố. 2. Nếu vay tiền sau đó gian dôi hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt số tiền cho vay đó, không có ý định trả lại tiền thì mới bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bỏ trốn khác đi khỏi nơi cư trú ở chỗ bỏ trốn là cắt đứt liên lạc với chủ nợ, bỏ đi có chủ đích để không ai biết, không ai tìm thấy... nhằm mục đích không trả nợ nữa. Còn chuyển nơi cư trú là hợp pháp theo quy luật cư trú, tự do cư trú, chỉ cần người vay tiền có báo cho cơ quan quản lý nhân khẩu, hộ khẩu là không được coi là bỏ trốn. Ngoài ra, nếu mượn tiền sau đó sử dụng vào mục đích bất hợp pháp như đánh bạc, buôn lậu... dẫn đến mất khả năng trả lại tài sản thì mới có thể bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS.
Lần đầu tiên cho tôi được gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể các Luật sư DanLuat! Xin Luất sư tư vấn giúp tôi việc bán đất: Tôi có mảnh đất khoảng 160m2 tại TP Hà Giang.Tôi đã làm hợp đồng mua bán với giá 60tr và đã được phòng công trứng TP chứng thực và thu phí 280k nhưng ko có giấy thu tiền. KHi mang hồ sơ sang sở tài nguyên làm thủ tục chuyển quyền sử dụng và sang tên chính chủ cho người mua thì trả lại giấy hện trả kết quả. Trong phiếu ghi thời hạn giải quyết hồ sơ theo quy định là 20 ngày nhưng thời hạn trả kết quả tính từ ngày nộp hồ sơ là 1 tháng. Xin luật sư tư vấn giúp: - Việc thu tiền phí chứng thực hợp đồng đã đúng chưa? - Thời hạn trả kết quả đã đúng quy định chưa? - Các khoản phí, lêk phí, thuế phải nộp là gì? cách tính các khoản phí, lệ phí đó. Xin chân thành cảm ơn luật sư
Chào bạn! Trước hết lệ phí công chứng chứng thực hợp đồng văn bản được quy định tại Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 19 tháng 01 năm 2012 hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng và Thông tư số 115/2015/TTLT- BTC-BTP ngày 11 tháng 08 năm 2015. Ngoài ra trường hợp bạn có nhu cầu công chứng ngoài trụ sở thì bạn phải thanh toán thêm phí công chứng ngoài trụ sở theo quy định của Văn phòng công chứng đó. Hồ sơ của bạn như bạn nêu đã được cơ quan chức năng tiếp nhận và có giấy hẹn trả kết quả nên bạn cần liên hệ với cơ quan này để biết lý do chưa nhận được kết quả nhé. Lệ phí trước bạ theo quy định là 0.5% giá trị quyền sử dụng đất; Thuế thu nhập cá nhân trong trường hợp chuyển nhượng bất động sản hiện nay được quy định là 2% giá trị quyền sử dụng đất. Ngoài ra còn lệ phí cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thông thương lệ phí này từ 50.000đồng - 100.000đồng theo quy định của địa phương nơi có đất.
Nam 2015 dì của mình có mua một lô đất thổ cư tại Bình Dương, hiện nay muốn bán lại nhưng do không có thời gian đi xa nên dì của mình đã ra văn phòng công chứng Bình Thạnh số 164 XVNT lập hợp đồng ủy quyền toàn quyền thửa đất sang cho mình. Lúc lập Hợp đồng ủy quyền thì nhân viên ở đây đưa mình 03 bản để đọc, đọc xong ký tên, lăn vân tay. Khi đó mình thấy lạ là nhân viên phòng công chứng chỉ cho lăn tay một bộ, còn 02 bộ kia chỉ ký tên. Sau khi công chứng viên xác nhận vào, ký tên, đóng dấu thì phòng công chứng trả lại mình 02 bộ nhưng là 02 bộ không có lăn tay. Khi mình thắc mắc hỏi tại sao không lăn tay 03 bộ, họ nói chỉ cần lăn tay 01 bộ làm bản lưu tại phòng công chứng là được, còn 02 bản kia đã có công chứng viên ký tên, xác nhận và đóng mộc của phòng công chứng là được Vậy cho mình hỏi là 02 bộ hồ sơ trả về cho mình có hợp lệ hay không khi không có dấu vân tay của bên ủy quyền và bên được ủy quyền ( có ký tên của công chứng viên, đóng mộc phòng công chứng ) Và mình có thể sử dụng hợp đồng này để đi ký chuyển nhượng quyền sử dụng đất được hay không . Trân trọng !
Chỉ cần lăn tay 01 bộ lưu ở VPCC là đủ, bởi việc lăn tay nhằm kiểm tra, nhằm xác định người ủy quyền và người được ủy quyền có đúng là người có tên trên hợp đồng hay không (so sánh dấu vân tay trên CMND và dấu lăn tay trên hồ sơ có khớp nhau không) Và hồ sơ tar3 cho bạn ko có dấu vân tay vẫn hợp pháp để bạn có thể mua bán theo luật định
Chủ đất trước đây có làm hợp đồng cho người A thuê đất để kinh doanh, người A làm hợp đồng cho người B, người B kinh doanh được vài tháng thì không kinh doanh nữa, nay tôi muốn thuê có cần người A hủy hợp đồng không? ( VÌ hiện giờ tôi không liên lạc được với người B đó).
Vấn đề bạn nêu ở dạng mở (nhiều khả năng có thể xảy ra) nên không thể tư vấn cụ thể được. Ví dụ nếu giữa A với chủ đất không có thỏa thuận A được quyền cho thuê lại thì việc người khác thuê lại từ A là không ổn. Tiếp theo, với trường hợp A được quyền cho thuê lại thì quyền cho thuê tiếp của A như thế nào khi B không kinh doanh nữa.
Tôi vừa mới thành lập doanh nghiệp và đang làm thủ tục để làm giấy thông báo phát hành hóa đơn,theo yêu cầu của chi cục thuế thì thôi phải có hợp đồng thuê đất để sản xuất kinh doanh.Tôi có tham khảo một số mẫu hợp đồng thì thấy có các căn cứ và luật đất đai,các nghị định,quyết định số.... Vậy tôi muốn hỏi là theo qui định mới nhất thì tôi phải dùng các căn cứ về luật đất đai ngày......tháng......năm.....nào? Cũng như các nghị định và quyết định số mấy là đúng với qui định hiện nay. Tôi xin cảm ơn.
Hiện tại theo quy định của pháp luật như Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luât thuế... trường hợp thuê nhà, thuê mặt bằng là đất nhà xưởng kho bến bãi phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thời gian thuê từ 6 tháng trở lên thì phải lập hợp đồng có công chứng. Vì vậy em không cần xin mẫu hợp đồng làm gì chỉ cần các bên - bên thuê và bên cho thuê mang tài liệu hồ sơ của mình đến văn phòng công chứng sẽ được công chứng viên soạn thỏa hợp đồng và công chứng.
Kính nhờ luật sư tư vấn dùm cho em tình huống sau: Tháng 5 năm 2005 cha em có cho bác em mướn 4000m2 đất vườn với giá là 25 triệu đồng thời hạn là 10 năm. Giữa hai bên có làm hợp đồng nhưng trong điều khoản không nêu khi 1 trong 2 bên chấm dứt hợp đồng thì sẽ bồi thường như thế nào mà chỉ nêu là " nhờ pháp luật và chính quyền giải quyết". Do gia đình em đang cần tiền nên có ý định bán đi, bác em không có ý định mua nên gia đình em định bán cho người khác. Trình bày với bác em thì bác nói là đưa lại 30 triệu đồng thì sẽ giap lại đất. Sau một thời gian vẫn chưa tìm được người mua thì bác lại đặt vấn đề là bồi thường 50 triệu đồng. Gia đình em không chấp nhận nên vụ việc vẫn chưa được giải quyết! Hiện tại thì bác em có trồng chuối trên đất đó. Nếu bên gia đình em muốn chấm dứt hợp đồng thì mức bồi thường như thế nào là hợp lý? Nhờ các luật sư giải đáp dùm cho em. Em xin cảm ơn và chúc các luật sư luôn vui và công tác tốt!
Nội dung bạn hỏi được Bộ luật dân sự năm 2005 quy định như sau: "Ðiều 480. Hợp đồng thuê tài sản Hợp đồng thuê tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê giao tài sản cho bên thuê để sử dụng trong một thời hạn, còn bên thuê phải trả tiền thuê. Ðiều 482. Thời hạn thuê 1. Thời hạn thuê do các bên thỏa thuận; nếu không có thỏa thuận thì được xác định theo mục đích thuê. 2. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận về thời hạn thuê hoặc thời hạn thuê không thể xác định được theo mục đích thuê thì hợp đồng thuê hết thời hạn khi bên thuê đã đạt được mục đích thuê. Ðiều 491. Chấm dứt hợp đồng thuê tài sản Hợp đồng thuê tài sản chấm dứt trong các trường hợp sau đây: 1. Thời hạn thuê đã hết; 2. Theo thỏa thuận của các bên về việc chấm dứt trước thời hạn; đối với hợp đồng thuê không xác định thời hạn, khi bên cho thuê muốn chấm dứt hợp đồng thì phải báo cho bên thuê biết trước một thời gian hợp lý, nếu không có thỏa thuận về thời hạn báo trước; 3. Hợp đồng bị hủy bỏ hoặc bị đơn phương chấm dứt thực hiện; 4. Tài sản thuê không còn. Ðiều 426. Ðơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự 1. Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. 2. Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. 3. Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán. 4. Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị đơn phương chấm dứt phải bồi thường thiệt hại.". Như vậy, nếu gia đình bạn đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng trước thời hạn thì phải bồi thường thiệt hạn cho chú bạn (thiệt hại bao gồm tiền đầu tư vào đất, tài sản trên đất, giá trị thuê đất theo thị trường tăng lên....) Tuy nhiên, gia đình bạn chỉ phải bồi thường thiệt hại nếu hợp đồng có hiệu lực pháp luật (Hợp đồng có công chứng và đăng ký). Nếu hợp đồng thuê đất không có công chứng, chứng thực và không đăng ký thì gia đình bạn có quyền hủy bỏ hợp đồng và lấy lại toàn bộ diện tích đất đó hoặc yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Vào năm 6/2005, do cần tiền nên ba mẹ em vay một khoản tiền 30tr của một người gần nhà (lãi suất 7%/tháng) . Lúc đó, người ấy giữ sổ đỏ của miếng đất và kêu ba mẹ em làm "hợp đồng đặt cọc mua bán" đất (theo mẫu có sẵn,không công chứng) với thông tin đầy đủ của bên A  (ba mẹ em) và bên B (người cho ba mẹ em vay  tiền). Trong phần nội dung của hợp đồng có ghi là bên B có mua một miếng đất trị giá 50tr đồng (thấp hơn giá trị thật của đất thời điểm đó rất nhiều - hơn 500tr đồng) ,thanh toán tiền thành 2 đợt, đợt 1 là 30tr đồng. - Số tiền còn lại 20tr đồng sẽ thanh toán trong 6 tháng, từ 6/2005 đến 12/2005. (ở mục này chủ yếu ghi cho có,chứ không có thanh toán lần nào nữa hết) Trong phần cam kết có ghi rõ như sau : Cam kết cho bên A : Nếu có ai tranh chấp hoặc khi nhận đủ số tiền còn lại nói trên. Bên A phải giao đất theo hợp đồng. Còn ngược lại Bên A không làm đúng theo hợp đồng thì số tiền đặt cọc phải hoàn trả gấp đôi và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Cam kết cho bên B : Nếu Bên B không thanh toán đúng thời hạn hộp đồng thì xem như số tiền đặt cọc không còn giá trị nữa. Cả ba mẹ em và người ấy cùng ký tên. Từ lần đó đến nay đã hơn 9 năm, lãi suất đã lên rất cao nên ba mẹ em không còn khả năng chi trả nữa. Luật sư cho em hỏi, nếu tính từ thời điểm ký kết hợp đồng đến nay, đã quá 6 tháng để bên B thanh toán số tiền còn lại, như vậy hợp đồng có còn hiệu lực không ? Và nếu ba mẹ em không thể chi trả được, bên B kiện ba mẹ em ra Tòa, dựa vào "hợp đồng đặt cọc mua bán" thì ba mẹ em có bị mất đất không ? Nếu trường hợp ba mẹ em không giao đất, thì có phải sẽ hoàn trả gấp đôi số tiền đặt cọc là 60tr đúng ko ?
Đây là một việc phức tạp, chồng chéo nhiều mối quan hệ. Thứ nhất Về việc lập Hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng thửa đất, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về việc đặt cọc như sau: Điều 358. Đặt cọc 1. Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự. Việc đặt cọc phải được lập thành văn bản. 2. Trong trường hợp hợp đồng dân sự được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Theo quy định của Điều 358 thì rõ ràng việc đặt cọc nhằm mục đích hướng tới việc giao dịch là chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất. Việc đặt cọc cũng phải có thời gian nhất định - thời gian này đã được cha mẹ em và người đó thỏa thuận là 6 tháng. Sau 6 tháng các bên không thực hiện giao dịch thì không còn giá trị của việc đặt cọc nữa khi đó nếu lỗi thuộc về người mua thì người mua bị mất tiền đặt cọc. Ngược lại nếu lỗi thuộc về người bán - người chuyển nhượng thì người chuyển nhượng phải trả lại tiền cọc và bồi thường theo thỏa thuận của hai bên. Thứ hai Trường hợp này của gia đình em còn liên quan tới việc giao dịch dân sự khác là việc vay mượn tài sản, về nguyên tắc có vay thì phải có trả, nếu đến thời hạn thanh toán mà không trả tiền thì người cho vay có quyền khởi kiện vụ án dân sự để lấy lại số tiền đã cho vay.
Chào luật sư! Gia đình tôi có chuyển nhượng một phần đất có diện tích 480m2( 12m x 40m )cho ông A với số tiền giao dịch là 240 triệu đồng. Nhưng chỉ viết bằng giấy tay ( 2010) không có công chứng và phần đất 480m2 này là 1 phần của phần đất 1000m2 ( 25m x 40m ) của gia đình chúng tôi đã sử dụng trước năm 1993, chưa có GCNQSDĐ và đang chờ được cấp GCNQSDĐ. Hiện tại ông A muốn lấn chiếm thêm sang phần đất còn lại của gia đình chúng tôi, và muốn kiện ra tòa buộc gia đình tôi đưa thêm đất. Vậy xin hỏi luật sư: 1) Hợp đồng chuyển nhượng của gia đình tôi và ông A có thể bị vô hiệu hay không? 2)Gia đình tôi có thể kiện ra tòa để buộc hợp đồng này vô hiệu có được không? Thủ tục như thế nào và cơ quan có thẩm quyền nào có thể giải quyết? 3)Nếu hợp đồng vô hiệu thì sẽ được giải quyết như thế nào? Mong luật sư có thể giải đáp sớm thắc mắc của tôi. Chân thành cảm ơn luật sư!!!
Chào bạn, 1/ Hợp đồng có thể bị vô hiệu trên cơ sở yêu cầu của một trong các bên có liên quan và bên đó chứng minh được sự vô hiệu này. 2/ Gia đình bạn có thể kiện như vậy. Bạn nộp đơn khởi kiện viết theo mẫu của tòa án cùng các tài liệu, chứng cứ liên quan gửi tòa án. Nếu đã có bên khởi kiện rồi nhưng chưa ai nêu vấn đề này thì bạn nêu yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu với tòa án và tòa án sẽ xác định đây là yêu cầu độc lập hay phản tố, tùy theo bối cảnh cụ thể. 3/ Hậu quả pháp lý là các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp phải bồi thường thì tòa án xác định mức độ lỗi của các bên để phán quyết giá trị bồi thường theo nguyên tắc tương ứng với mức độ lỗi của bên vi phạm. Trân trọng!
Hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ là gì?
Căn cứ pháp lý: Điều 3 Luật nghĩa vụ quân sự 2015 Hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ là công dân đang phục vụ trong lực lượng thường trực của Quân đội nhân dân và lực lượng Cảnh sát biển.
Hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị là gì?
Căn cứ pháp lý: Điều 3 Luật nghĩa vụ quân sự 2015 Hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị là công dân đã đăng ký phục vụ trong ngạch dự bị của Quân đội nhân dân.
Kính chào luật sư, Em có một vấn đề liên quan đến việc đăng ký hộ khẩu thường trú tại Tp.HCM, kính mong luật sư giúp đỡ. Trường hợp của em là như thế này: Anh chị em (anh rễ và chị ruột) đăng ở 1 căn hộ chung cư, hiện tại căn hộ chung cư này chỉ có giấy tờ mua bán với Công ty phát triển nhà, chưa có số hồng hay số đỏ (10 năm nữa không biết là có sổ hồng, sổ đỏ chưa). Anh chị có sổ hộ khẩu thường trú, anh rễ là chủ hộ. Em tạm trú tại nhà này khoảng 5 năm (có sổ tạm trú). Nay em có nhu cầu đăng ký hộ khẩu thường trú tại căn hộ này, em có ra công an phường thì công an phường yêu cầu làm hợp đồng thuê nhà, ở nhờ có chứng thực tại Phòng công chứng. Sau đó, em ra phòng công chứng, công chứng viên nói rằng vì căn hộ này không có sổ đỏ nên không công chức hợp đồng cho thuê, mượn hay ở nhờ được. Đối với trường hợp của em, có thể đăng ký được hộ khẩu thường trú hay không. Nếu được thì làm cách nào. Em xin chân thành cảm ơn. Kính chúc luật sư sức khỏe!
Theo qui định của luật cư trú và các văn bản hướng dẫn thi hành thì để được đăng ký hộ khẩu thường trú ở 1 địa chỉ nào đó, đương sự phải xuất trình được giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp của nơi mình muốn ĐKKHKTT. Do vậy trường hợp của bạn không thể tiến hành làm các thủ tục công chứng về thuê nhà hay cho ở nhờ (chưa có chủ quyền nhà). Ban chỉ có thể nhập hộ khẩu vào ngôi nhà nào mà có giấy tờ hợp pháp và họ đồng ý bảo lãnh cho bạn vào.
Địa chỉ thường trú là gì?
Căn cứ pháp lý: Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 Địa chỉ thường trú là địa chỉ đăng ký trụ sở chính, đối với tổ chức; địa chỉ đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc địa chỉ nơi làm việc hoặc địa chỉ khác của cá nhân mà người đó đăng ký với doanh nghiệp để làm địa chỉ liên lạc.
xin cho tôi hỏi nếu tôi muốn thưa để lấy lại đất có lấy lại được không ah : chuyện là thế này :bố tôi là con  nuôi nhưng được má nuôi chuyển nhượng đất cho ,do gặp khó khăn nên bố tôi đã bán cho bà H NĂM 1985 đến ngay đã 25 năm ,mỗi căn chiều rộng 2,8 m ,chiều dài 10m , mỗi căn giá 7 chỉ rưỡi vàng 24k mỗi căn . Nhưng khi ra huyện thì không cho bán đất và nhà đất huyện đã gạch bỏ phần đất . khi về nhà ,chồng bà H nói nhà nước không cho bán đất nên đã gạch bỏ trong giấy bán nhà rồi nói với bố tôi chỉ trả 4 chỉ vàng 24k Sau một thời gian nhà nước đồng ý cho nhân dân bán đất của mình , thì cứ vào mỗi đêm chồng bà H và chồng bà H uống rượu say về khoảng 11 giờ khuya đập cửa nhà bốtôi kêu bốtôi ra kí giấy đất , không ra thì chồng bà H va chồng bà H chửi bố tôi và kêu bố tôi ra đánh lộn , MẸ tôi không cho bố tôi ra bảo bố tôi ở trong nhà . Cứ như thế mỗi khi uống rượu về là đến đập nhà bố tôi và chửi bố tôi trong một thời gian dài .bố Tôi có ra trình bài với cô hiệu trưởng của tôi là cô T ,rồi cô khuyên tôi . Sau đó cứ mỗi lần bố tôi đi dạy thì hai vợ chông bà H xây tường trên phần đất nông nghiệp của bố tôi 26m và lấn qua nhà bố tôi hai hàng gạch ,bố tôi có thưa ấp được anh nhà may S và anh T vào hòa giải dùm , nhưng không giải quyết .Sau đó vợ chồng bà H tiếp tục xây trên phần đất nông nghiệp của bốtôi KHOẢNG NĂM 1991 bà H xây lầu cắt đòn tay ngắn lại làm mái nhà âm dương nặng quá làm sập nhà bố tôi . Lúc sập nhà là lúc ba ruột bốtôi chết ,bố tôi phải về tây ninh lo cho tang lễ ÔNG NỘI tôi . Khi về gặp dì Út má anh T cho  hây nhà bố tôi bị sập ,khi nhà bố tôi sập dì Út tưởng bố TÔI ở trong ,nhà dì Út nói : “ Tao tưởng hồi tối nhà sập đề mầy chết rồi”. HIỆN NAY sau bà H xây lầu nữa ,khi đập nhà xuống thợ đập đá gạch vào nhà làm bể lu và đồ đạc của bốtôi ,sau đó bà đào móng nhà tôi .bố Tôi có gặp bà hòa giải hai lần . Lần đầu bà H chửi bố tôi ,lần hai xin lỗi bố tôi và đồng ý không đào móng nhà qua bức tường nhà bố tôi ,nhưng bà H còn thưa tôi ra ủy ban nhân dân phường L-T mời bốtôi ra hòa giải .  vì thế bố tôi nghĩ cần đòi lại những gì của mình ,khi mà lúc trước khó khăn về mưu sinh do là con của một thương binh thuộc cấp đặc công thiếu tá ,lại thêm phát luật lại chưa vững chắc để cho dân tin ,nên bố tôi không kiên quyết thưa, bây giờ thưa có đòi lại được không. hiện nay nhà gần như sập hoàn toàn và lại là nhà mà bố tôi định xin cấp nhà tình nghiã thuộc diện con thương binh vì vậy xin tư vấn cho ah . mọi giấy tờ có đủ, nhưng giấy bán nhà mà không bán đất là do bà h giữ ,thế họ có sữa  lại tỉ lệ kích thước đất không . tôi cũng đã hỏi1 luật sư ,và được biết bán quá lâu  người ta chiếm dụng đất và có sổ đỏ rồi thế nên làm sau đây
Bạn đã tư vấn luật sư rồi mà vẫn phải hỏi trên Diễn đàn, chắc bạn không tư tin lắm. Như bạn nêu thì nhà (gắn liền trên đất) đã bán, người ta đã xây lại nhà, có tranh chấp và làm ảnh hưởng đến gia đình bạn. Bây giờ bạn muốn lấy lại đất. Hy vọng tôi hiểu đúng nội dung bạn nêu! Việc lấy lại đất của bạn thuộc trường hợp rất phức tạp rồi. Bây giờ bạn phải thu thập lại tất cả các chứng cứ để biết các bên đã thỏa thuận những gì, những tài liệu, chứng cứ có thể làm căn cứ cho việc đòi lại đất của bạn. Đối với tư vấn gián tiếp, tôi chỉ có thể gợi ý bạn một số phương hướng chung. Trên cơ sở thông tin bạn nêu, sơ bộ tôi thấy, việc đòi lại đất của bạn là tương đối khó khăn nên bạn cần nhờ luật sư nào có thể đủ tin tưởng để tư vấn hoặc trực tiếp tham gia giải quyết vụ việc.
- Mếm chào luật sư! cho em hỏi đôi điều về việc tranh chấp đất của gia tộc em với người hàng xóm, Nguyên nhân là phần đất do bà nội em đứng tên la 11.200m2 ( đát nông nghiệp ) bà nội em đã mất năm 2002 mà chua sang tên lại cho cha em, rồi cha em cung mất năm 2010, hiện các cô bác đã ký chấp thuận chuyển toàn bộ số đất mà bà nội em đúng tên cho em tại văn phòng công chứng Tỉnh. " đất nhà em là đất hương quả đã 4 đời và có bản đồ do Pháp cấp 18XX)     - Thì em đã có đủ quyền tranh chấp đất với người giáp ranh em không?        - Lúc trước khi bên kia làm giấy chuyển quyền sử dụng đất em đã ký giáp ranh khi đó em chưa được sự ủy quyền gì của các cô, bác khi làm giấy địa chính Huyện xuông do xong lấy 2 trụ đá đầu va cuối em và bên kia đồng y ký vo văn bản rù, nhưng bây giờ thì em trồng các cây trụ đá khác căn dây 2 trụ mà địa chính đã xác định thì bị nhỗ và chữi em lấn đất 2m trong khi em di làm việc ngày 8 giờ không đụng đến đất đó.      - Hiện trạng đất em đã bị lấn khoảng trên 1m5 dài khoảng trên 200m so với ranh giới có tư rất lâu của 2 bên khi tranh chấp em co thể khôi phục lại hiện trạng củ mà bà nội em đứng tên ( đất nông nghiệp )  không?      - Rất mong được sự giải đáp chân thành của Luật sư! em chân thành cảm ơn.
Bạn đã được các đồng thừa kế chấp thuận cho sử dụng toàn bộ số đất do bà nội bạn để lại nhưng bạn phải thực hiện thủ tục snag tên trước bạ và đăng bộ hợp lệ thì mới chính thức được cộng nhận quyền sử dụng đất hợp lệ. Khi đất đã có giấy đỏ nếu bạn cho rằng người hàn xóm lấn đất bạn thì tranh chấp này phải do UBND xã/phường nơi có đất tọa lạc hòa giải, nếu ko thành thì bạn khởi kiện đến tòa án quận/huyện nơi có mảnh đất tọa lạc giải quyết
Kính gửi Luật sư, Tôi là nguyên đơn trong vụ tranh chấp đất, Tòa sơ thẩm đã xử thắng cho bị đơn, nhưng tôi đã làm đơn kháng án lên cấp Phúc thẩm. Trong thời gian Tòa Phúc thẩm đang thụ lý thì bị đơn cho xây nhà. Tôi đã có khiếu nại tới chính quyền địa phương và UBND Phường đã có văn bản trả lời là: "... Về phía địa phương, sau khi nhận đơn đã phối hợp cùng Thanh tra Xây dựng kiểm tra và lập biên bản vi phạm hành chính và ngừng thi công xây dựng công trình vi phạm trật tự xây dựng của bà X vào ngày 23/05/2012. Ngày 24/05/2012, UBND ban hành quyết định số ..., v/v đình chỉ thi công đối với bà X . Lý do bị đình chỉ vì xd nhà ở không có giấy phép xd theo quy định. Đồng thời buộc bà X phải làm thủ tục xin phép xd trong thời hạn tối đa là 60 ngày, kể từ ngày có quyết định đình chỉ thi công. Nếu quá thời hạn mà bà X không xuất trình giấy phép do cơ quan có thẩm quyền cấp thì bị cưỡng chế phá dỡ công trình..." Vậy nên tôi có vài điều muốn LS giải đáp giúp: 1. Khi Tòa Sơ thẩm đã xử xong thì bị đơn liền cho xây nhà như vậy có đúng không? 2. Tòa Phúc Thẩm đang thụ lý tranh chấp đất thì bị đơn có xin phép xây dựng được không? 3. Tôi sẽ phải làm gì để đề phòng việc bị đơn có thể "lách luật" (bị đơn là cán bộ UB). Rất mong nhận được phản hồi của LS,
Như quý vị trình bày thì bản án cấp sơ thẩm tuyên cho bị đơn thắng kiện nhưng chưa có hiệu lực pháp luật vì bản án có kháng cáo đúng hạn. 1) Bản án chưa có hiệu lực pháp luật thì các bên phải giữ nguyên hiện trạng chờ đến khi có phán quyết của tòa án cấp phúc thẩm- bị đơn xây nhà trong trường hợp này là không đúng. 2) Tòa phúc thẩm đang thụ lý giải quyết tranh chấp bị đơn vẫn có quyền xin giấy phép xây dựng nhưng sẽ không được cấp có thẩm quyền cấp phép vì lý do đất đang có tranh chấp 3) quý vị có thể làm đơn kiến nghị đến UBND nơi có đất tranh chấp về việc không cấp phép xây dựng đối với diện tích đang tranh chấp- đây là tài liệu quan trọng để khiếu nại quyết định hành chính nếu đất tranh chấp mà vẫn được cấp phép xây dựng
Chào Luật Sư. Cho tôi hỏi Luật sư về việc tranh chấp đất đai ngoài sổ đỏ như sau: Ông  nội của Ba tôi (đã mất) có chia cho con cháu (là ba tôi) và một số anh em trong tộc họ mỗi người một mảnh vườn để trồng cây. Việc chia đất vườn cho con cháu của ông tôi chỉ là truyền miệng và không có giấy tờ gì cả. Trên mảnh đất của nhà tôi, Ba tôi đã trồng cây bạch đàn đã 35 năm tuổi và hiện mảnh đất nhà tôi có trong sơ đồ địa chính của Phường quản lý. Thế nhưng năm ngoái có Ông Chú là anh em chú bác với Ba tôi tự dựng lên cuộc họp rồi lập thành biên bản với nội dung là: Đất trồng cây nhà tôi hiện tại là đất của ông bà nên nay thu hồi lại để làm dùng việc riêng cho họ tộc và đưa vài người trong họ ký tên vào. Hiện nay có đoàn về phường tôi tiến hành xác định, kê khai lại ranh giới đất thì ông Chú đó mang biên bản đó ra làm khó dễ cho nhà tôi.  Cho tôi hỏi Luật sư bây giờ nhà tôi phải làm thế nào và thủ tục ra sao để đúng với Luật đất đai hiện hành.
Theo quy định pháp luật thì việc chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản và đăng ký thì mới có hiệu lực pháp luật. Việc ông bà nội bạn chia đất cho bố bạn nhưng không đăng ký nên không có giá trị pháp lý. Tuy nhiên, cần xem lại ông bà bạn qua đời năm nào để biết thời hiệu khởi kiện tranh chấp thừa kế đối với di sản do ông bà nội bạn để lại. Nếu ông bà bạn đã chết quá thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế (10 năm) thì các chú, các bác bạn cũng không thể đòi lại được thửa đất đó. Những cây cối trên đất do bố bạn trồng thì sẽ là tài sản của gia đình bạn.
Vợ chồng tôi được mẹ chồng cho 1 miếng đất trong thời kỳ hôn nhân. Sau đó, vợ chồng không hòa hợp, có ý ly hôn. Gia đình chồng hẹn tôi ra Phòng công chứng kí giấy thỏa xác nhận không có tài sản chung (theo anh giải thích là để dễ, chồng tôi còn có mời luật sư tư vấn riêng cho gia đình chồng). Khi đến Phòng công chứng, do buồn chán và chuyện hôn nhân không trọn vẹn, tôi đã kí mà không xem kĩ nội dung là "hợp đồng cho tặng quyền sử dụng đất" cho mẹ chồng tôi. Những tưởng, khi kí rồi, họ sẽ có chút tính tình cảm, sẽ hoàn lại một khoản tiền mặt để tôi lo cho con (cháu gái - 30 tháng) đang sống với tôi. Nhưng họ không cho lại gì cả, mà còn đòi luôn vàng cưới, tiền chợ khi tổ chức lễ cưới. Tôi thấy mình đã bị lừa trắng trợn, nên đổi ý, không muốn "cho tặng quyền sử dụng đất" nữa. Vậy, tôi phải làm gì để vô hiệu lực hợp đồng đã kí ấy?
Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận. Việc tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản và phải có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu. Trong trường hợp của bạn, bạn tặng cho quyền sử dụng đất cho mẹ chồng bạn thì phải thực hiện thủ tục công chứng và phải được đăng ký quyền sơ hữu tại cơ quan có thẩm quyền sau khi thực hiện việc công chứng hợp đồng. Bạn đã thực hiện việc công chứng hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo quy định. Tuy nhiên, việc tặng cho chỉ hoàn thành khi thực hiện xong thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất tại cơ quan có thẩm quyền. Trường hợp chưa thực hiện việc đăng ký quyền sử dụng thì có quyền sửa đổi, bổ sung, chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng tặng cho theo quy định. Theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Công chứng 2014 thì: “Việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng chỉ được thực hiện khi có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch đó” Như vậy, khi bạn muốn hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thì cần có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của cả mẹ chồng bạn (người được tặng cho) và văn bản thỏa thuận, cam kết này cũng phải được công chứng theo quy định. Theo thông tin bạn cung cấp, giữa bạn và mẹ chồng phát sinh quan hệ dân sự về tặng cho tài sản. Việc bạn không đọc kỹ hợp đồng tặng cho trước khi ký là lỗi của bạn. Do đó, không thể lập luận rằng vì bạn không đọc kỹ hợp đồng nên muốn hủy hợp đồng đó được. Trường hợp bạn có đầy đủ căn cứ để chứng minh việc tặng cho đó là do nhầm lẫn hay bị lừa dối, đe doạ… hoặc rơi vào các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự thì bạn có quyền khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đó vô hiệu.
Ông tôi có 4 người con 2 trai, 2 gái, bố tôi là con trưởng trong gia đình  Năm 1999 ông tôi qua đời để lại 2 mảnh đất 450m2 và 470m2 (với di chúc là để cho bố tôi mảnh đất 450m2 và chú tôi mảnh 470m2 nhưng di chúc bị chú tôi giấu cho đến tận bây giờ mới được biết, di chúc không có công chứng của chính quyền không có người làm chứng)  Năm 2009 có đợt làm sổ đỏ của huyện gia đình tôi ở với bà trên mảnh đất 450m2 (từ năm 1980 đến nay) và đã để bà đứng tên sổ đỏ . chú tôi ở trên mảnh đất 470m2 (từ năm 1985) bằng các nào đó chú đã được đứng tên sổ đỏ mà không có sự đồng ý của bà tôi cũng như các anh chị em trong gia đình. (đã có sổ đỏ được 3 năm)  Năm 2013 do bà tôi đã yếu không còn minh mẫn. Chú và 2 cô đã họp gia đình đòi bố tôi chia mảnh đất gia đình tôi đang ở đứng tên bà tôi. Xin hỏi luật sư bây giờ gia đình tôi phải làm gì? Di chúc có hợp pháp hay không ? Gia đình tôi có được kiện việc làm sổ đỏ sai pháp luật của chú tôi hay không? Nếu được thì cơ quan nào sẽ giải quyết
Trường hợp này như bạn nói đất của ông có để lại di chúc, nhưng sau này bà lại đứng tên sổ đỏ như vậy nguồn gốc đất có phải là tài sản chung của ông bà hay là tài sản riêng của ông? Do vậy, có hai tình huống có thể xảy ra: 1. Nếu là tài sản của ông thì nếu di chúc lập trong tình trạng minh mẫn không ai ép buộc thì di chúc có giá trị thực hiện, việc chú em dấu đi là không mất đi quyền thừa kế của bố em khi ông đã định đoạt cho bố bạn 450 m2 đất do ông để lại. Do vậy, khi xác định có di chúc này bố bạn có quyền yêu cầu chú bạn trả lại di chúc để dành quyền thừa kế theo nội dung di chúc, nếu chú bạn né tránh thì khởi kiện ra Tòa buộc chú bạn hoàn trả di chúc để thực hiện. 2. Nếu là tài sản chung của ông bà thì quyền thửa kế phát sinh của các con ông là bố bạn, chú bạn và 2 dì chỉ là nữa giá trị miếng đất, di chúc của ông sẽ không có hiệu lực thi hành vì ông chỉ là đồng sở hữu miếng đất với bà mà ông định đoạt phân chia cả miếng đất là không có quyền. Khi đó di sản chỉ được chia bằng cách là các đối tượng hưởng thừa kế sẽ cùng khai di sản thừa kế do ông để lại.
Kính gửi luật sư! Nhà tôi có mua một khu đất ở nông thôn ngang 9m dài 38m, nhưng vẫn chưa xây nhà Hiện tại nhà bên cạnh đang xây dựng nhà ngay ranh đất giữa 2 thửa đất (học đào móng ngay ranh đất). Nếu sau này tôi xây dựng đúng ranh đất thuộc sở hữu của mình thì có thể nhà họ sẽ bị lung lay hoặc sập. Theo như địa phương tôi thì ai xây nhà cũng để dôi ra khoảng cách tối thiểu là 1 viên gạch Vậy, trong trường hợp người hàng xóm của tôi xây nhà sát ranh đất có vi phạm pháp luật hay không? Tôi có thể làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình. Xin cám ơn luật sư!
Nội dung bạn hỏi được quy định tại Điều 265, Điều 266 và Điều 267 Bộ luật dân sự năm 2005 cụ thể như sau: " Ðiều 265. Nghĩa vụ tôn trọng ranh giới giữa các bất động sản 1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận của các chủ sở hữu hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ ba mươi năm trở lên mà không có tranh chấp. 2. Người có quyền sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới trong khuôn viên đất phù hợp với quy hoạch xây dựng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất liền kề của người khác. Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. 3. Trong trường hợp ranh giới là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng thì người sử dụng đất có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh giới chung; không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách. Ðiều 266. Quyền sở hữu đối với mốc giới ngăn cách các bất động sản 1. Chủ sở hữu bất động sản liền kề chỉ được dựng cột mốc, hàng rào, xây tường ngăn trên phần đất thuộc quyền sử dụng của mình. Những người sử dụng đất liền kề có thể thỏa thuận với nhau về việc dựng cột mốc, hàng rào, xây tường ngăn, trồng cây trên ranh giới để làm mốc giới ngăn cách giữa các bất động sản; những vật mốc giới này là sở hữu chung của những người đó. Trong trường hợp mốc giới ngăn cách chỉ do một bên tạo nên trên ranh giới và được chủ sở hữu bất động sản liền kề đồng ý thì mốc giới ngăn cách đó là sở hữu chung, chi phí để xây dựng do bên tạo nên chịu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; nếu chủ sở hữu bất động sản liền kề không đồng ý mà có lý do chính đáng thì chủ sở hữu đã dựng cột mốc, hàng rào, xây tường ngăn phải dỡ bỏ. Ðối với cây là mốc giới chung, các bên đều có nghĩa vụ bảo vệ; hoa lợi thu được từ cây được chia đều, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. 2. Ðối với mốc giới là tường nhà chung, chủ sở hữu bất động sản liền kề không được trổ cửa sổ, lỗ thông khí hoặc đục tường để đặt kết cấu xây dựng, trừ trường hợp được chủ sở hữu bất động sản liền kề đồng ý. Trong trường hợp nhà xây riêng biệt nhưng tường sát liền nhau thì chủ sở hữu cũng chỉ được đục tường, đặt kết cấu xây dựng đến giới hạn ngăn cách tường của mình. Ðiều 267. Nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng 1. Khi xây dựng công trình, chủ sở hữu công trình phải tuân theo pháp luật về xây dựng, bảo đảm an toàn, không được xây vượt quá độ cao, khoảng cách mà pháp luật về xây dựng quy định và không được xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu bất động sản liền kề và xung quanh. 2. Khi có nguy cơ xảy ra sự cố đối với công trình xây dựng, ảnh hưởng đến bất động sản liền kề và xung quanh thì chủ sở hữu công trình phải cho ngừng ngay việc xây dựng, sửa chữa hoặc dỡ bỏ theo yêu cầu của chủ sở hữu bất động sản liền kề và xung quanh hoặc theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. 3. Khi xây dựng công trình vệ sinh, kho chứa hóa chất độc hại và các công trình khác mà việc sử dụng có khả năng gây ô nhiễm môi trường, chủ sở hữu phải xây cách mốc giới một khoảng cách và ở vị trí hợp lý, phải bảo đảm vệ sinh, an toàn và không làm ảnh hưởng đến chủ sở hữu bất động sản liền kề và xung quanh. Ðiều 268. Nghĩa vụ bảo đảm an toàn đối với công trình xây dựng liền kề Khi đào giếng, đào ao hoặc xây dựng các công trình dưới mặt đất, chủ sở hữu công trình phải đào, xây cách mốc giới một khoảng cách do pháp luật về xây dựng quy định. Trong trường hợp công trình có nguy cơ đe dọa sự an toàn bất động sản liền kề và xung quanh thì chủ công trình phải thực hiện ngay các biện pháp khắc phục; nếu gây thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản liền kề và xung quanh thì phải bồi thường ."
Kính gửi Luật sư Tôi có sự việc này, mong luật sư tư vấn: - Từ trước năm 1954 ông Cố đến mảnh đất này sống và canh tác - Sau đó thì ông Nội tiếp tục ở cho đến sau giải phóng và có 06 ngươi con - Trên mảnh đất đó nhà thờ các ông bà đi trước, hiện nay vẫn còn - 1980 ông nội chết - Các người con khác ở riêng, chỉ có 1 ngươi con trai Út (Chú 7 tôi) ở gần nhà ông nội, và người Cô ruột ở chung với ông Ba nội - 2.2000 ba noi tôi mất - 2002 Chú Út tôi mất Có sự việc tôi mới biết hôm nay là: - Trước khi bà nội mất năm 2000, thì Nhà nước kiểm kê đât 1999 và Chu Út khai toàn bộ Chú Út đứng tên. Ở Xã bây giờ chỉ có tờ khai. Các giấy tờ khác ko có. Theo thông tin tôi được biết năm 1999, địa chính xã có hiện tượng hủy nhiều giấy tờ đất có trước 1999 - Năm 2007 Thím Út làm Giay CNQSDD sang tên từ Chú Út (lúc này đã chết được 6 năm) Xin LS tư vấn xem khi đưa ra pháp luật Gia tộc tôi có lấy lại phấn đất đó của Ông Bà để lại được ko. Vì nhà thờ thì còn nguyên nhưng trên bản đồ của Xã là đất trống ko có nhà thờ. Xin cảm ơn LS rất nhiều
Như bạn nêu thì đất đai do ông bà nội để lại và không có di chúc, sau đó gia đình Chú Út làm sổ đỏ đứng tên mình. Như vậy, những người con có quyền thừa kế đối với đất đai (di sản) đó. Tuy nhiên, do bên kia đã được chính quyền địa phương cấp sổ đỏ nên việc chứng minh quyền được chia di sản của những người khác là không dễ dàng, chưa kể người để lại di sản đã mất quá 10 năm, nghĩa là về nguyên tắc chung thì thời hiệu khởi kiện phân chia di sản thừa kế đã hết.
Chào Luật sư, Hiện tại gia đình tôi sinh sống tại Huyện Từ Liêm từ năm 1991 đến nay, Phía trước nhà tôi cách đường có một khu đất kẹp giữa của xã Xuân Phương, trước là rãnh thoát nước của khu tập thể liên đoàn địa chất. Do mất vệ sinh và ô nhiễm không ai can thiệp nên nhà tôi đã mua đất làm hệ thống cống rãnh và trồng cây thành 1 khu vườn. Trong khu vườn đó có hệ thống cống do nhà tôi bỏ tiền xây và 1 hố ga để tiện nuôi gà, nuôi lợn thải xuống đó cho sạch. Năm 2011 khu vườn chỉ được nhà tôi rào mà không xây, do đó có 1 số anh chị đã vào tranh chấp khu vườn đến nay. Các anh chị đó cũng có thế lực do vậy nhà tôi yếu thế hơn, mới đây các anh chị đó xây nhà, lợp mái tôn che kín khoảng không gian trước mặt nhà tôi và mặc nhiên chiếm khu vườn phía trước. (Lưu ý: dưới vườn chúng tôi có thể chứng minh được các hạng mục nhà tôi đã làm cho môi trường sạch đẹp và một số công trình trên đất mà gia đình tôi đã bỏ tiền triển khai) Sang tuần tới tháng 7/2013 ủy ban xã Xuân Phương có giấy mời các hộ gia đình vào để xử lý vụ tranh chấp, vậy mong luật sư cho gia đình tôi lời khuyên trong trường hợp này, rất cảm ơn luật sư.
Tôi xin chia sẻ với bạn những khó khăn và vướng mắc gia đình bạn đang gặp phải, tuy nhiên các nội dung bạn cung cấp quá chung chung mà luật sư tư vấn thì phải dựa vào tài liệu, chứng cứ, theo tôi đây là tranh chấp dân sự nên việc thu thập và tìm kiếm chứng cứ để chứng minh là rât cần thiết. 1- Bạn nên thu thập tất cả các chứng cứ có liên quan và lưu lại dưới dạng Giấy, tài liệu ghi âm, ghi hình... 2- Bổ sung và xác định nguồn gốc đất, vấn đề quản lý đất đai và hiện trạng; 3- Bổ sung việc tranh chấp hiện tại, người tranh chấp và các thông tin có liên quan đến việc tranh chấp. Khi bản bổ sung và cung cấp hồ sơ thì có thể liên hệ với tôi đề được tư vấn và tìm cách giải quyết vụ việc này.
Xin các vị luật sư tư vấn giúp cho ông bà nội tôi đều sinh năm 1923, ông bà tôi ngày xưa không có đăng ký kết hôn và đẻ được 4 người con trai trong đó có bố tôi, bà tôi mất tháng 2/2003 không để lại di chúc. Năm 2010 ông tôi cho họp gia đình có mặt đầy đủ mọi ng, mọi ng thống nhất để bố tôi bỏ tiền đứng ra xây dựng nhà thờ tất cả mọi ng đều ký tên đồng ý. Năm 2011 ông tôi có viết di chúc để lại toàn bộ tài sản trên cho bố tôi. (phần đất này trước kia mang tên ông tôi, nhưng chưa có sổ đỏ) bây giờ có 1 bác và 1 chú muốn tranh chấp với bố tôi. Xin hỏi các anh, chị, chú, bác luật sư trả lời giúp cho tôi cách nào để gđ tôi không bị mất đất!
Theo như thông tin bạn cung cấp, xin được tóm tắt lại: ông bà bạn có di sản là quyền sử dụng đất, bà bạn mất năm 2003 không để lại di chúc, năm 2010 gia đình bạn có họp và thống nhất ký văn bản để cho bố bạn được bỏ tiền xây dựng nhà thờ. Năm 2011 ông bạn để lại di chúc cho bố bạn được thừa kế toàn bộ tài sản (nhà đất chưa được cấp Giấy chứng nhận). Nay, chú và bác của bạn đang muốn tranh chấp đối với nhà đất nói trên. Thời điểm bà bạn mất là tháng 2/2003, tính đến nay (tháng 10/2013) đã hết thời hiệu khởi kiện chia thừa kế (theo điều 645 Bộ Luật dân sự), các đồng thừa kế của bà bạn không có thỏa thuận nào bằng văn bản xác định rằng 1/2 thửa đất (thuộc quyền sở hữu của bà bạn khi còn sống) là di sản thừa kế chưa chia nên có ý kiến khởi kiện chia thừa kế tại thời điểm này tòa án sẽ không giải quyết. Về phần tài sản thuộc quyền sở hữu của ông bạn, do bạn không nói ông bạn nay còn sống hay đã mất nhưng trong trường hợp ông bạn có di chúc để lại cho bố bạn, di chúc đó đáp ứng được các quy định của pháp luật và không bị thay thế cho đến thời điểm ông bạn mất thì khi ông bạn mất bố bạn sẽ là người thừa kế. Trong trường hợp có người con nào của ông bạn thuộc đối tượng không có khả năng lao động theo điều 669 của Bộ Luật Dân sự thì người con này vẫn sẽ được hưởng thừa kế bằng 2/3 kỷ phần thừa kế theo pháp luật.
Các luật sư cho cháu hỏi: -Gia đình cháu có 1 mảnh đất mà trước đây bác cháu đi bộ đội về xin được. Và sau ông bà cháu cho bố mẹ cháu làm nhà và làm bìa đỏ đàng hoàng rồi. Đến mấy năm nay chỗ cháu thành lập huyện mới, khu vực nhà cháu ở được chuyển sang huyện mới nên bắt buộc phải làm lại bìa đỏ cho mảnh đất trên. Nhưng bác cháu (bác đi bộ đội về) giờ đâm đơn kiện để lấy lại mảnh đất trên (mảnh đất ông bà cho gia đình cháu và đã đứng tên sổ đỏ cho bố mẹ cháu). Vậy cho cháu hỏi: Bác của cháu có lấy lại được mảnh đất kia không và có lấy lại được không ? Mong các bác trả lời nhanh giúp cháu với! Cháu xin cảm ơn. Và ông cháu đã mất, còn bà cháu thì vẫn còn sống! Nếu sau này bà mất bà viết di chúc để lại mảnh đất kia cho bác cháu thì gia đình cháu có mất mảnh đất kia không!
Người bác đã kiện thì bên bạn có quyền và nghĩa vụ tham gia quá trình tòa án giải quyết. Bên bạn đã được cấp sổ đỏ là một căn cứ pháp lý rất quan trọng chứng minh quyền sở hữu hợp pháp của mình và được pháp luật thừa nhận, bảo vệ. Tuy nhiên, tham gia tố tụng là một quá trình phức tạp nên để giảm thiểu rủi ro, bên bạn cần chuẩn bị hết sức chu đáo để bảo vệ lợi ích của mình. Sổ đỏ đứng tên bố mẹ bạn thì bà bạn không có quyền gì về đất đó khi viết di chúc.
Thưa luật sư! Bà nội tôi có 7 người con (4 người con trai thì 2 người đã chết, một người là liệt sĩ chưa có gia đình, chỉ còn lại bố tôi và ba cô con gái vẫn còn sống). Bà nội tôi sống cùng bố mẹ tôi. Năm 1994, chia lại ruộng đất canh tác, bà  cho bố mẹ tôi 720m 2 đất trồng lúa của bà  (không có văn bản thừa kế). Bố mẹ tôi cho lại con trai là anh tôi diện tích đất trồng lúa đó (cũng không có văn bản thừa kế) nhưng bà đồng ý nhập hộ khẩu của bà vào hộ khẩu của gia đình anh tôi để anh tôi có trách nhiệm nghĩa vụ về diện tích đất trồng lúa của bà. Đến năm 2000, bà tôi mất, bố mẹ tôi là người thờ cúng bà, diện tích đất trồng lúa đó anh tôi vẫn canh tác đến nay. Ngày 7/2/2014 một người con dâu và ba người con gái của bà đã kí giấy không nhận quyền thừa kế. Nhưng người con dâu lớn của bà tôi đòi thừa kế diện tích đất trồng lúa trên Vậy tôi xin hỏi luật sư, anh tôi có quyền được tiếp tục sử dụng diện tích đất trồng lúa của bà tôi nữa không và nếu phải chia thì chia như thế nào?   Rất mong luật sư giúp đỡ để tôi nhanh chóng giải quyết được mâu thuẫn trong gia đình. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Về nguyên tắc đất trên là di sản của ông bà nội em để lại nhưng không có di chúc nên sẽ phải chia thừa kế cho các người con. Ông bà có 7 người, 01 chết chưa có gia đình, nến tài sản trên sẽ chia làm 6 phần cho các con, 02 người con trai đã chết thì vợ (con dâu cả) và con của họ sẽ nhận thay. Trường hợp 03 cô con gái và 01 cô con dâu từ chối thì phải lập văn bản và nếu Tòa chấp nhận giải quyết thì thửa đất trên sẽ chia cho cô dâu cả 1/6 giá trị thửa đất
Đường đi của gia đình mình cắt ngang qua đất nhà hàng xóm và đã được thể hiện rõ ràng trên bản đồ địa chính. Khoảng năm 2008-2009 gia đình bên kia có thực hiện san ủi đất (san luôn đường đi nhà mình) và cắt cho gia đình mình đường đi tạm khác để bên họ san lấp đất đai và hứa khi xong việc sẽ trả lại( tất cả chỉ nói trên miệng vì là hàng xóm mà). chuyện bắt đầu từ đây: - khi gia đình bên kia san lấp đất xong thì không trả lại đường đi cho gia đình mình như đã hứa mà cắt cho 1 đường đi khác. bé hơn đường đi cũ rất nhiều nên 2 gia đình đã sảy ra tranh chấp từ đó mà vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng. - đã rất nhiều lần gia đình mình nộp đơn yêu cầu xã giải quyết, xã đã lên và mời cả địa chính đo và cắt lại đường đi như cũ( như theo bản đồ) và gia đình bên kia nổi điên lên cầm dao chửi bới dọa chém cả mấy ông ở xã nên ko ai làm được gì. và từ đó còn rất nhiều lần 2 bên được mời ra xã để giải quyết mà vẫn chưa giải quyết được. (do bên kia) - vậy mọi người cho mình hỏi việc của gia đình mình muốn giải quyết dứt điểm thì phải làm thế nào? đường đi nhà mình đã có trên bản đồ địa chính thì nếu giải quyết sẽ cắt lại đường cũ ko hay sẽ giải quyết ra sao
Đây là trường hợp cả hai bên tranh chấp quyền sử dụng đất đều đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất- Sổ đỏ. Sự việc đã được chính quyền địa phương tổ chức hòa giải nhưng không được do một bên không đến. Vì vậy gia đình bạn có thể yêu cầu UBND xã phường nơi có thửa đất đó lập biên bản hòa giải không thành và chuyển vụ việc đến Tòa án để giải quyết theo quy định chung. Trường hợp này nếu bên đang tranh chấp với gia đình nhà bạn có thể ngồi thỏa thuận với gia đình bạn được thì sự việc cũng sẽ sớm được giải quyết dứt điểm.
Tôi có một người anh mua đất và bị một trường hợp như sau: Tôi tạm gọi các bên như sau: Anh tôi là A1, anh bạn mua chung mảnh đất với anh tôi là A2, người bán đất là B, Chủ cũ bán đất cho bà B là bà C. Năm 2012 anh A1 có cung A2 mua đất của bà B với giá trị 400 triệu (mỗi người 200 triệu), tại thời điểm mua đất bà B có dẫn vào cho xem đất và giới thiệu bà C đang ở nhà là người nhà cho ở nhờ và bà C cũng xác minh là vậy (xác minh bằng lời nói). Khi thống nhất được giá cả thì bà B cùng 2 anh A1 và A2 ra phòng công chứng làm thủ tục mua bán. Ngay sau đó anh A1 vì có việc đi công tác nên để lại HDDMB công chứng và sổ đỏ cho anh A2 ở nhà làm các thủ tục sang tên. Tuy nhiên khi ở nhà anh A2 làm thủ tục sang tên bị vướng mắc vì bà C làm đơn lên phòng tài nguyên môi trường là bà C sang tên cho bà B là để vay vốn ngân hàng chứ không phải mua bán. Và cho đến ngày nay anh A2 lại làm việc lại với bà C nhận lại 200 triệu và trả lại toàn bộ sổ đỏ và HDMB công chứng cho bà C nên anh A1 hiện đang có nguy cơ mất trắng 200 triệu vì bà C đang chuẩn bị làm thủ tục yêu cầu tòa hủy HDMB công chứng trên và trả lại tên sổ đỏ cho bà C. Xin các luật sư cho tôi hỏi: 1. Anh A1 cần làm gì để bảo vệ được lợi ích hợp pháp của mình a.? 2. Nếu bà C đơn phương yêu cầu Tòa xử lý trả lại tên sổ đỏ cho bà C mà không có mặt của anh A1 có được không. 3. Các khả năng nào có thể xảy ra để bà C yêu cầu tòa thụ lý hồ sơ này
Trước hết nếu thông tin bà C và bà B cung cấp là chính xác thì việc lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa A1 A2 và bà B sẽ đứng trước khả năng bị tuyên vô hiệu vì người được ủy quyền là bà B đã không thực hiện đúng nội dung ủy quyền. Khi đó để giải quyết hợp đồng này thứ nhất các bên có thể tự thương lượng giải quyết và thực hiện thủ tục hủy Hợp đồng chuyển nhượng đã được công chứng. Trường hợp không thể thương lượng giải quyết thì có quyền yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết. Với anh A1 để chứng minh quyền lợi hợp pháp của mình thì cần phải có tài liệu chứng minh anh ta cũng là một người tham gia giao dịch này, chứng minh việc ký hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện, anh A1 cũng có thể đưa ra các yêu cầu của mình trong quá trình giải quyết vụ việc. Thứ hai trường hợp bà C yêu cầu hủy hợp đồng đó thì khi tòa án thụ lý giải quyết bắt buộc phải có A1 tham gia vì A1 là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, thậm chí A 1 còn phải tham gia vụ án dân sự này với tư cách bị đơn - người bị kiện. Trừ trường hợp được triệu tập nhưng A1 có đơn xin xét xử vắng mặt. Thứ ba, khả năng nào để Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án phụ thuộc vào tài liệu, chứng cứ cũng như yêu cầu khởi kiện của bà C và thẩm quyền của Tòa án, nếu thuộc thẩm quyền của tòa án, tòa sẽ quyết định thụ lý hoặc không thụ lý vụ án này.
Kính gửi luật sư Nguyễn Nguyên Xin luật sư tư vấn giúp Tôi. Ông nội tôi mất năm 2002 và có di chúc lại cho bố và chú tôi 2 ô đất liền kề nhau mỗi người một ô đã làm bìa đỏ đứng tên 2 người. Năm 2003 chú tôi có viết giấy để lại cho bố Tôi trên giấy có  chữ ký xác nhận của vợ chồng, các con của chú tôi và của UBND xã nơi chú tôi cư trú. Năm 2008 bố tôi có xây dựng nhà và xây sang một phần đất của chú tôi là 20m2. Năm 2009 gia đình tôi làm lại sổ bìa đỏ và mảnh đất của chú tôi vẫn đứng tên chú ấy. Hiện nay gia đình chú tôi muốn lấy lại mảnh đất đứng tên chú và gia đình tôi đồng ý trả lại. Tôi muốn hỏi luật sư phần đất mà bố tôi đã lỡ xây dựng sang phần đất của chú tôi 20 m2 đó nếu xảy gia tranh chấp thì pháp luật sẽ xử lý ra sao? Mong nhận được câu trả lời của luật sư. Trân trọng cảm ơn và kính chào
Năm 2003 Chú bạn và bố bạn đã làm giấy tờ viết tay về chuyển nhượng quyền sử dụng đất có xác nhận của UBND cấp có thẩm quyền vì thế theo quy định của luật đất đai 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành thì hợp đồng này hợp pháp. Tuy nhiên nội dung bạn trao đổi không rõ nên tôi không xác định được diện tích vị trí của mảnh đất được chuyển nhượng. Gia đình bạn xây dựng nhà trên lần sang 20m của chú bạn, nếu tranh chấp xẩy ra, gia đình bạn phải trả lại diện tích trên cho chú bạn. Trường hợp các bên thỏa thuận không lấy lại đất có thể đền bù bằng tiền hoặc hiện vật có giá trị.
Hiện tôi đang vướng mắc vấn đề này, nhờ luật sư giải đáp giúp: Nhà tôi đang ở chung diện tích với ba mẹ tôi, năm 2006 tôi có xây dựng thêm 1 ngôi nhà 2 mê, để được cấp sổ hồng buộc  tôi phải có diện tích 250m2 nên ba mẹ tôi đã ký tên cấp cho tôi thêm 50m2 đất  và trên sổ hồng hiện tại vẫn có phần đất này (50m2  đất và 200 m2  nhà ở). Hiện tại UBND huyện nơi tôi cư trú đang đi đo lại đất, trúng vào lúc gia đình tôi và ba mẹ tôi có xích mích. Ba mẹ tôi nói phần đất đó là của ông bà, ko thuộc quyền sở hữu của tôi cho dù trên sổ hồng do tôi đứng tên, tôi có trình bày rồi đưa sổ hồng ra cho cán bộ đo đất đai xem và họ quyết định không đo đất nữa vì đất này đang tranh chấp. Vậy cho tôi hỏi, cán bộ sẽ giữ nguyên đất như theo sổ hồng đã cấp cho tôi hay là sẽ lấy lại 50m2 đất đó như lời ba mẹ tôi mong muốn và cấp lại cho tôi sổ khác.
Bạn nêu "... và trên sổ hồng hiện tại vẫn có phần đất này (50m2 đất và 200m2 nhà ở)." Nếu vậy thì bạn đã được cấp sổ cho cả 250m2 rồi. Trong trường hợp này, bố mẹ bạn muốn lấy lại 50m2 đất thì thương lượng với bạn và thương lượng không được thì chỉ có tòa án mới có thẩm quyền giải quyết. UBND chỉ cấp lại sổ nếu có phán quyết của tòa án.
Chào luật sư!                Tôi có một vấn đề khó khăn liên quan tới đất đai của gia đình mong luật sư tư vấn giúp.                 Tháng 1/1995 ba tôi có mua mảnh đất của ông Nguyễn Văn Mô, tháng 3/1995 địa chính huyện có xuống đo đạc đất và viết một giấy phạt vì chưa nộp thuế, vì nghĩ mình là con trưởng nên sẽ xây nhà trên mảnh đất đó cho ông bà ở, sau này anh trai tôi là cháu đích tôn sẽ kế tự nên ba tôi dùng tên ông nội để đúng vào "Sổ trắng", (lúc này ông bà còn đang sống với v/c chú út và có nhiều mâu thuẫn với thím út)                  Đến năm 2004 nhà tôi bán một phần mảnh đất, năm 2011 bán nốt số còn lại và muốn làm sổ đỏ cho xong, cơ quan xã yêu cầu làm giấy ủy quyền giữa các anh em vì giấy tờ có liên quan đến tên ông nội tôi, nhưng cô chú tôi lại không đồng ý và đòi trả lại phần đất đó vì cho rằng đất đó do ông bà tôi góp tiền mua (có 3 người đã ký và 3 người chưa ký). Họ yêu cầu ba tôi thừa nhận đất đó là do ông bà tôi mua thì sẽ ký giấy. Nhưng theo tôi biết ông tôi bị đau 8 năm từ 1987 đến tháng 5/1995 thì mất, bà tôi ở nhà chăm sóc ông và cũng mất tháng 9/1995 vì tai nạn, ông tôi có sổ thương binh loại 1 và dùng để chi tiêu cũng như trị bệnh cho ông tôi chứ chưa hề đưa cho ba hay mẹ tôi giữ.                  Hiện nay ba tôi đang giữ trong tay bản vẽ địa chính mang tên Nguyễn Văn Mô (đã chết), giấy chuyển quyền sử dụng đất cho ba tôi nhưng không có đóng dấu vì lúc đó xã đang thay đổi con dấu, giấy xác nhận của một số người làm xã đội lúc trước đã chứng kiến việc mua bán trên.                  Như vậy việc không đồng ý của cô chú tôi là có căn cứ pháp lý không nếu đưa vấn đề ra trước pháp luật? Ba tôi rất giận vì sự việc trên và muốn giải quyết cho đúng với sự thật nhưng liệu những căn cứ mà ba tôi có có đủ sức thuyết phục về mặt pháp lý hay không? Theo luật sư tôi nên làm gì và cần làm những gì để có thể giúp ba?                 Xin được cảm ơn luật sư rất nhiều, mong hồi đáp của luật sư và chúc gia đình luật sư năm mới nhiều sức khỏe và thành công!
1. Theo thông tin bạn nêu thì giấy tờ mua bán đứng tên ông nội bạn nên thửa đất đó được xác định là thuộc quyền sử dụng của ông bà nội bạn. Nếu có tranh chấp về quyền sử dụng đất xảy ra thì bố bạn phải chứng minh được rằng bố bạn đã đưa tiền cho ông bạn mua đất hoặc bố bạn trả tiền và thực hiện thủ tục, còn ông bạn chỉ là người đứng tên "hộ" thì gia đình bạn mới thắng kiện. 2. Tuy nhiên, cả ông và bà bạn đều chết năm 1995, theo quy định của pháp luật thì đến năm 2005 là hết thời hiệu khởi kiện về thửa kế. Do vậy, nếu các cô, chú bạn có tranh chấp về thừa kế đối với di sản của ông bạn thì Tòa án cũng không giải quyết. Gia đình bạn sẽ được quyền tiếp tục sử dụng nhà đất đó nhưng chưa thể xin cấp Giấy chứng nhận được.
Chúng tôi ở xóm A, thôn B, Hà Nội. Có đất ao là của xóm A. Gia đình ông bà T ở cạnh ao đó và đã đổ đất lấn ao sử dụng, cho đến năm 2014 đã được trên 20 năm. Dân làng chúng tôi đều biết nhưng mãi cho đến tháng 7 năm 2014 vì 1 số lý do mới đưa chuyện này ra pháp luật, yêu cầu ông bà T phải trả lại đủ diện tích của ao xóm. Vậy theo luật sư thì việc ong bà T sử dụng số diện tích đất ao đó trên 20 năm thì có được cấp quyền sử dụng cho ông bà T k? Hay ông bà T phải trả lại diện tích đất đó cho xóm A. Và thưa luật sư, cho đến thời điểm hiện tại thì trong giấy từ và bản đồ đất của xã và huyện thì số diện tích ao đó vẫn đang thuộc quyền sở hữu của xóm A.
1. Về việc ông bà T có được cấp giấy chứng nhận cho phần diện tích đất lấn chiếm hay không? Pháp luật đất đai hiện hành quy định: điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ về quyền sử dụng đất bao gồm: - Đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004; - Không vi phạm pháp luật về đất đai; - Nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp; - Phù hợp với quy hoạch sử dụng đất (Tham khảo Điều 101, Luật Đất đai 2013). Theo khoản 5, Điều 19, Nghị định 43/2014/NĐ - CP, không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp người đang sử dụng đất không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Như vậy, trường hợp ông A lấn chiếm và sử dụng đất công trong thời gian hơn 20 năm nhưng hiện nay trên hồ sơ địa chính thể hiện đất vẫn thuộc chủ quyền của xóm A và đang có tranh chấp thì đương nhiên ông bà T không đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận với phần đất lấn chiếm này. 2. Về việc khôi phục lại chủ quyền đất trên thực tế cho xóm A Do thông tin bạn cung cấp chưa đủ cơ sở làm rõ việc “đưa ra pháp luật” đối với hành vi lấn chiếm của ông bà T ở đây là như thế nào, tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành, thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai hiện nay là bắt buộc. Các bên có thể làm đơn yêu cầu UBND cấp xã đứng ra giải quyết. Căn cứ vào giấy tờ nguồn gốc đất, UBND sẽ xem xét. Trường hợp các bên không đồng ý nhất trí với kết quả giải quyết của ủy ban nhân dân cấp xã thì có thể khởi kiện ra tòa án nhân dân để giải quyết theo quy định của pháp luật.
Sau khi ông ngoại em mất có để lại thừa kế cho mẹ em một mảnh đất khoảng 1000m2, nhưng gia đình chưa làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 1995, mẹ em cho gia đình cậu (là bà con họ hàng) ở nhờ vì họ không có đất ở. Đến năm 2002 thì có chủ trương đo đạc đại trà để thành lập bản đồ địa chính nên nhà em thực hiện việc đo đạc và làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi đo đạc, được các hộ xung quanh ký giáp cận và không có tranh chấp nên năm 2004 mẹ em được cấp giấy chứng nhận. Gia đình cậu vẫn tiếp tục ở cho đến nay, nhưng lại nhận đất đó là của cậu, việc đo đạc cậu không hay biết (lúc đo đạc cán bộ địa chính có hỏi gia đình cậu, họ không tranh chấp nhưng cán bộ địa chính không có làm giấy xác nhận cho cậu ký tên) và khiếu nại về việc cấp giấy chứng nhận cho mẹ em là sai vì trên đó có nhà và đất của cậu. Sau nhiều lần hòa giải không thành, UBND chuyển hồ sơ cho phòng Tài nguyên và Môi trường. Kết luận của phòng TN-MT cho rằng trên cùng một thửa đất mà có nhiều cá nhân, hộ gia đình, tổ chức cùng sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho từng cá nhân, từng hộ gia đình, tổ chức đó đồng quyền sử dụng. Và có quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của mẹ em. Mẹ em đã làm đơn khởi kiện ra tòa, vậy có khả năng lấy lại được phần đất nêu trên không? Gia đình cậu thuộc diện hộ nghèo, nếu buộc di dời sẽ không có chỗ ở, tòa có xem xét hoàn cảnh mà xử có lợi cho cậu không? Thứ hai, căn nhà của cậu ở gần như là giữa mảnh đất. Nếu không lấy lại được thì sẽ cấp quyền sử dụng đất cho mẹ em như thế nào?
Trường hợp chứng minh được nguồn gốc của thửa đất là của ông bà ngoại em để lại, việc mẹ em cho người cậu ở nhờ có tài liệu chứng minh... khi đó mẹ em có quyền được sử dụng toàn bộ thửa đất. Tuy vậy trong trường hợp này cũng là chỗ người nhà và cậu em cũng đang khó khăn về mặt nhà ở, thuộc diện hộ nghèo.. nên khi mẹ em có lấy lại được thửa đất thì cũng cần phải tính đến việc hỗ trợ cậu em về nơi ăn ở. Đây là sự việc cũng khá phức tạp không chỉ liên quan đến các quy định của pháp luật qua các thời kỳ mà nó còn liên quan tới tình cảm trong gia đình. Vì vậy em và gia đình cần cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định.
Chào các bác các chú. Mẹ cháu có mua 1 nền đất dự án ở Long An nhưng chủ đất ko giao đất cũng ko chiu trả tiền, mẹ cháu có kiện cty BDS  đó và đã thắng kiện.tòa án tuyên cty BĐS phai tra toan bo so tiền của mẹ đã mua nhung đã hơn 3 tháng ko thấy cty tra gì hết cho mẹ cháu.Mẹ cháu lên sở thi hành án,So thi hanh án đưa mẹ cháu tờ giấy Đơn yêu cầu thi hành án kêu mẹ đi xac minh tài sản đất của cty bds là sao? Xin các bác các chú chỉ dẫn giúp mẹ cháu nên làm gì đễ thi hành án thi hành đòi tiền lại cho mẹ cháu..,Hiện tại mẹ cháu có giấy photo CHỦ QUYỀN ĐẤT của chủ đầu tư cty đứng tên đất dự án,vậy có giấy chủ quyền đó mình ko cần đi xác mình đúng ko ạ. Xin các bác các cô chú chỉ dẩn cách ghi đơn như thế nào? Xin cảm ơn các bác các cô chú.
Nếu bên phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì bên được thi hành phải gởi đơn yêu cầu thi hành án đế cơ quan thi hành án dân sự để yêu cầu cưỡng chế thi hành. Theo quy định hiện nay thi bên được thi hành phải cung cấp thông tin về tài sản của bên phải thi hành để cơ quan thi hành án có cơ sở xác định và thi hành án. Do vậy, với việc một công ty con đang hoạt động, có trụ sở giao dịch, có tài khoản thì không khó gì để cơ quan thi hành án thi hành bản án này. Ngoài ra, việc bạn đang có bản photo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong tay cũng là cơ sở để giúp cơ quan thi hành án xác minh tài sản của bên phải thi hành để tổ chức thi hành án .
Tôi là Trương Thị Điệp, cha chồng tôi là Nguyễn Văn Lang có ba người con: Nguyễn Trúc, Nguyễn Trãy( chồng tôi), Nguyễn Thị Quế. Quê quán: vức I, thôn Thượng Hòa, xã Bình Đông, H.Bình Sơn, Quảng Ngãi. Ông Nguyễn Văn Lang có lô đất sát dừa ông bà khai hoang từ thời xa xưa( trước năm 1945) với diện tích trên ba héc ta. Ông Nguyễn Lang đã mất từ năm 1942, chồng tôi (Nguyễn Trãy) và anh chồng tôi (Nguyễn Trúc) được giao lại tài sản trên nhưng không có làm di chúc và ông Trúc cũng bỏ đi xa một thời gian ( 1946 ->1952) khi ông Trúc về thì cùng chồng tôi đồng sử dụng đầm dừa nước trên. Đến  năm 1968,  chiến tranh xảy ra khốc liệt thì ông Trúc lại một lần nữa dẫn vợ con trốn đi xa tránh làn tên lửa đạn. Ông Nguyễn Trãy(chồng tôi) cùng vợ con ở lại bám trụ quê hương, giữ làng, chống giặc ( xin nói thêm tôi được nhà nước trao tặng huân chương kháng chiến hạng ba) và đồng thời sử dụng và sở hữu mảnh đất nói trên. Mãi đến năm 1976, ông Trúc mới đưa vợ con trở về quê hương. Sau đó cùng ông Nguyễn Trãy sử dụng mảnh đất trên. Từ sau khi ông Trúc mất năm 1992 và chồng tôi mất năm 1990 thì chỉ có ông Nguyễn Tử Long( con ông Nguyễn Trúc) khai phá 1692m2 để làm hồ nuôi tôm còn lại vẫn nguyên hiện trạng cũ, các con của Nguyễn Trúc và Nguyễn Trãy không ai cải tạo thêm bớt gì và ai cần sử dụng theo nhu cầu thì lấy về sử dụng, vì ông Trúc và ông Trãy mất đi cũng không hề để lại giấy tờ nào cả nên Long, Năm , Bảy ( con ông Trúc) và tôi cùng Hoa, Lý, Bàn, Tiết ( con tôi) cùng tham gia quản lý và khai thác lá dừa về lợp nhà và lợp chuồng bò, vì tính chất của đất sát dừa nước là không cần người chăm sóc. Theo trích lục sao kê bản đồ địa chính trước năm 2013 thì diện tích đất này chưa có người kê khai sở hữu tài sản. Năm 2013, các con của ông Nguyễn Trúc tự ý đứng ra kê khai quyền sở hữu đất đai mà không thông báo cho gia đình chúng tôi( diện tích đất này chưa có GCNQSD đất và không có di chúc, những người lớn tuổi trong làng đều xác nhận cho tôi là đất do ông bà để lại cho chồng và anh chồng tôi ). hiện tại mảnh đất này thuộc dự án kè chống sạt lỡ đường cứu hộ cứu nạn di dân tái định cư neo đậu tàu thuyền đập Cà Ninh hạ lưu sông Trà Bồng. Vậy tôi xin hỏi theo luật thừa kế của Nhà nước, gia đình tôi có được quyền sử dụng đất và hưởng tiền bồi thường từ sát dừa này không? Nếu có, tôi và các con tôi được hưởng bao nhiêu? Khi khiếu nại về quyền này tôi phải làm việc với cơ quan nào? Tôi đang được hưởng chế độ của người có công cách mạng, nhưng cuộc sống còn rất khó khăn, nếu tôi đưa đơn ra tòa án thì tôi có được miễn giảm lệ phí hầu tòa hay không? Nếu được thì bao nhiêu phần trăm? Nếu không tôi phải đóng lệ phí bao nhiêu với tổng diện tích trên ba héc ta. nếu ra tòa tôi cần có chứng cứ gì để chứng minh tôi có quyền được thừa kế tài sản? Xin hỏi thêm là theo nội dung như tôi nêu thì UBND các cấp đã đưa quyết định là gia đình tôi hoàn toàn không được hưởng ( căn cứ luật 2013) như vậy đúng hay sai? Chúng tôi đã đệ đơn lên UBND xã, huyện nhưng các cơ quan này đã tạo ra chứng cứ sai sự thật, giải quyết không minh bạch. Chúng tôi cũng đã gởi đơn lên UBND tỉnh nhưng chưa được giải quyết. Gia đình tôi tha thiết xin nhờ các cơ quan chức năng có thẩm quyền can thiệp giải quyết vấn đề này mà không có sự tư lợi. Tôi xin nói thêm về một số vấn đề như sau : Địa chính và UBND xã lừa dối tạo ra những chứng cứ phi thực tế trong việc xác nhận quyền sở hữu các lô đất đang tranh chấp .( kể cả cấp huyện ) Biên bản hòa giải thì có lần tôi ký xong rồi sau đó chem vào những lời khai không thực tế, lúc thì bắt tôi ký vào tờ giấy trắng rồi sau đó mới thành lập văn bản( cho rằng lập biên bản không kịp). Ghi những lời khai khống. Tôi là người khi có chiến tranh đã ở lại địa phương chống giặc , được nhà nước trao huân chương kháng chiến, vậy mà UBND xã Bình đông , huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi cho rằng tôi đã bỏ làng theo địch .Nên không canh tác trên mãnh đất đang tranh chấp. Thưa Luật sư như vậy có hợp lý không ? Rất mong được giải đáp từ chương trình. Chân thành cảm ơn!
Chào bà Trương Thị Điệp! Đây là trường hợp tranh chấp về quyền sử dụng đất, quá trình giải quyết tranh chấp qua việc hòa giải nếu không thành thì bà và gia đình có quyền khởi kiện vụ án dân sự tại tòa án có thẩm quyền theo thủ tục chung quy định tại Bộ luật Tố tụng Dân sự. Việc bà đề nghị UBND huyện, tỉnh giải quyết tranh chấp trong trường hợp này là chưa phù hợp. Nhưng nếu bà và gia đình khiếu nại việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND huyện cũng như UBND tỉnh. Với trường hợp khởi kiện thì bà sẽ phải có nghĩa vụ nộp tạm ứng án phí, án phí sẽ được tính trên cơ sở số diện tích đất tranh chấp x giá đất/1m2 theo thang bảng giá của tình ban hành. Khi nộp tạm ứng án phí bà sẽ phải nộp 50% án phí tạm tính. Đối với trường hợp là người có công với cách mạng sẽ được xem xét miễn, giảm án phí. Đó là nội dung tư vấn của luật sư cho trường hợp bà nêu, bà có thể tiếp tục gửi câu hỏi về diễn đàn để được các luật sư tư vấn hoặc liên hệ trực tiếp với luật sư của công ty luật Bách Dương để nhận sự tư vấn trực tiếp. Chúc bà mạnh khỏe và sớm giải quyết được vụ việc!
Chào luật sư! Năm 1980 mẹ cháu có mua đất và làm móng nhà nhưng chưa làm sổ đỏ, tháng trước có người đến tranh chấp bảo cũng có quyền sử dụng mảnh đất đó. Nhà cháu có giấy ký giáp ranh với nhà bên cạnh, trên bản đồ cũng có, vậy bây giờ cháu phải làm như thế nào ạ?
Không loại trừ khả năng chủ đất đã bán đất cho nhiều người thi đây là hành vi lừa đảo, vi phạm pháp luật hình sự phải tố cáo để công an giải quyết. Việc bây giờ là nhà cháu và người tự nhận mình cũng có quyền sử dụng đất gặp nhau xem giấy tờ của nhau nhưt hế nào, ai mua trước ai mua sau để biết mình có bị lừa đảo hay không mà có hướng giải quyết vì trên nguyên Tắc một miếng đất không thể bán cho hai người.
Ông D co QSDĐ được UBND huyện cấp vào ngày 22/8/1995, đến 23/5/2007 ong D bán hết thửa đất là 1144m2, đất giáp lộ nông thôn( con lộ có từ trước 1975) được UBND huyện cấp giấy cho toi. nay ông C đến trong cây trên phần dất của tôi làm cản lối ra vào. kính mong luật sư tư vấn và hướng dẫn dùm cách xử sự. Cám ơn.
Chào bạn! Hành vi trồng cây trên đất thuộc quyền sử dụng của bạn và gia đình khi chưa được bạn và gia đình - những người sử dụng hợp pháp thửa đất đồng ý là hành vi vi phạm quyền sử dụng đất của bạn và gia đình. Trước hết bạn yêu cầu ông C chuyển tất cả các cây cối đã trồng ra khỏi thừa đất của gia đình bạn, bạn có quyền gửi đơn đến UBND xã phường nơi có thửa đất để yêu cầu địa phương giải quyết trường hợp ông C không chịu chuyển các cây đó đi thì bạn và gia đình có quyền khởi kiện ông C tại tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chúc bạn mạnh khỏe và sớm giải quyết được sự việc!
Tôi có thửa đất chưa có nhu cầu sử dụng nên có một người bạn rủ tôi hợp tác kinh doanh. Trong đó, họ ra tiền đầu tư kinh doanh trên thửa đất của tôi, lời chia đôi. Trường hợp này, nếu tôi có nhu cầu chuyển nhượng thửa đất thì có thực hiện được không? Nếu họ không chia đủ và đúng tiền lời thì tôi có quyền hủy bỏ hợp đồng không?
Chị có thể yên tâm thực hiện ý định trên, vì Điều 730 Bộ luật Dân sự đã có quy định bên góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất có các quyền sau đây: 1. Được hưởng lợi nhuận theo tỷ lệ góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; 2. Được chuyển nhượng, để thừa kế phần góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác; 3. Được nhận lại quyền sử dụng đất đã góp vốn theo thỏa thuận hoặc khi thời hạn góp vốn đã hết; 4. Hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu bên nhận góp vốn không thực hiện việc thanh toán phần lợi nhuận đúng thời hạn hoặc thanh toán không đầy đủ. Tuy nhiên, để đảm bảo mọi việc thuận lợi về sau, chị và bên hùn vốn cần phải lập hợp đồng nêu rõ các nội dung theo quy định gồm: tên, địa chỉ của các bên; quyền, nghĩa vụ của các bên; loại đất, hạng đất, diện tích, vị trí, số hiệu, ranh giới và tình trạng đất; thời hạn sử dụng đất còn lại của bên góp vốn; thời hạn góp vốn; giá trị quyền sử dụng đất góp vốn; quyền của người thứ ba đối với đất được góp vốn; trách nhiệm của các bên khi vi phạm hợp đồng (Điều 728- Bộ luật Dân sự).
Theo e được biết Luật KDBĐS quy định là Chủ đầu tư khu nha ở có thể huy động vốn theo hình thức là kí HĐ góp vốn đầu tư cơ sở hạ tầng và nhận  quyền SDĐ với CĐT thứ cấp.  Vậy có tồn tại hợp đồng hợp pháp là HĐ góp vốn đầu tư cơ sở hạ tầng và nhận  quyền SDĐ giữa CĐT ( CĐT khu dân cư)  kí với  cá nhân  hay không ạ. Vì em thấy thực tế trước khi có TT20 thì người mua đât nền thường lách luật bằng HĐ góp vốn.( tức là kí trực tiếp với CĐT)
Theo quy định của Luật kinh doanh bất động sản, các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành đạo luật này thì chủ đầu tư dự án BĐS được phép huy động vốn từ khách hàng khi đã hoàn tất hạ tầng kỹ thuật dự án (thi công xong phần móng). Việc góp vốn này thường được các chủ đầu tư áp dụng theo hình thức ký hợp đồng góp vốn với các khách hàng có nhu cầu mua căn hộ, đất nền của dự án để nhận chuyển nhượng chính căn hộ, đất nên mà khách hàng góp vốn (tức tài sản hình thành trong tương lại). Hình thức này đuộc phép luật cho phép, công nhận nhưng có quy định là chủ đầu tư phải huy động vốn làm nhiều lần, tương ứng với tiến độ dự án và không được huy động quá 70% giá trị căn hộ, đất nền khi chưa bàn giao sản phẩn cho khách hàng.
Thủ tục sang tên sổ đỏ theo di chúc ?
1. Trình tự thủ tục Bước 1: Quý khách tiến hành thủ tục khai nhận di sản thừa kế: Quý khách cần chuẩn bị các giấy tờ sau: Giấy chứng nhận QSH nhà ở và QSD đất ở; Giấy chứng tử; Di chúc (đối với trường hợp có di chúc); Giấy khai sinh; Sổ hộ khẩu; Chứng minh nhân dân. Bước 2: Đăng ký biến động (sang tên sổ đỏ) tại Văn phòng Đăng ký đất đai: - Nộp hồ sơ đăng ký biến đông tại Văn phòng đăng ký đất đai; - Thực hiện nghĩa vụ tài chính (nếu có); - Nhận sổ đỏ (GCNQSDĐ) đã được đăng ký biến động. 2. Hồ sơ đăng ký biến động gồm có: - Đơn đề nghị đăng ký biến động về sử dụng đất; - Di chúc; - Giấy khai sinh; - Giấy chứng tử của Bố, Mẹ; - Văn bản khai nhận di sản thừa kế; - Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; - Hộ khẩu, CMTND của bên nhận thừa kế; - Tờ khai thuế thu nhập cá nhân và lệ phí trước bạ theo mẫu; - Biên lại nộp nghĩa vụ tài chính hoặc thông báo miễn nộp nghĩa vụ tài chính (bản gốc);
Xin chào luật sư. Nhờ LS tư vấn giúp Anh tôi do không tìm hiểu kỹ nên đã lỡ mua một mảnh đất măc dù bên bán hoàn tất hợp đồng chuyễn nhượng và anh tôi đã ra sỗ đỏ tên anh được 4 tháng nhưng khi anh xây nhà thì xảy ra tranh chấp thừa kế giữa các chị em của người chủ bán đất cho anh tôi họ sẽ kiện nhau ra tòa ,anh tôi là người liên quan vụ kiện ,vậy anh tôi có phải trả lại đất không? Hay người bán đất phải chịu trach nhiệm với chi em họ. Anh tôi đã bỏ ra hết 500 triệu để xây nhà ,quyền lợi anh tôi được luật pháp bảo vệ như thế nào? Xin cám ơn các anh chị LS rất nhiều
Trường hợp của anh bạn rất dễ trở thành "người thứ 3 ngay tình" vì nếu nguyên đơn thắng kiện thì có thể hủy hợp đồng mua bán anh bạn. Lúc này anh được được trả tiền... nhưng có thể khó thi hành án để lấy lại tiền. Tốt nhất anh bạn nên nhờ luật sư nào đó giúp đỡ và tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho mình... Chỉ khi tiếp cận với hồ sơ vụ án thì mới có thể tư vấn tốt nhất được
Gia đình tôi có một căn nhà tại tỉnh Thái Nguyên. Năm 2001 mẹ tôi qua đời, gia đình tôi chuyển về quê Hà Nội sống. Đến năm 2002 bố tôi có viết giấy ủy quyền cho tôi để tôi đứng tên căn nhà đó và được chính quyền xã nơi bố tôi đang ở xác nhận (Sổ đỏ hiện tại mang tên mẹ tôi, căn nhà đó là tài sản chung của bố mẹ tôi và tôi cũng có 1 người em gái nữa). Tôi xin hỏi bây giờ năm 2012, tôi có thể mang giấy ủy quyền sang tên nhà của bố tôi ký năm 2002 và giấy chứng tử của mẹ tôi lên Thái Nguyên để xin sang tên nhà cho mình được không? Nếu được thì tôi phải làm những gì? Cảm ơn luật sư!
Trường hợp bố bạn lập giấy ủy quyền năm 2002 cho bạn đứng tên căn nhà đó đến nay đã hết hiệu lực, không còn giá trị pháp lý, do vậy bạn không thể mang theo giấy ủy quyền và giấy chứng tử của mẹ bạn để làm thủ tục sang tên cho nhà bạn được vì: Bản chất của giấy ủy quyền bố bạn lập là là việc bạn thay mặt bố bạn thực hiện các công việc bố bạn giao cho bạn như trong coi, sử dụng, định đoạt ngôi nhà trên. Và giấy ủy quyền trên chấm dứt khi bố bạn đã mất (chết) theo quy định tại Điều 589 Bộ luật dân sự 2005 như sau: Ðiều 589. Chấm dứt hợp đồng uỷ quyền Hợp đồng uỷ quyền chấm dứt trong các trường hợp sau đây: Hợp đồng uỷ quyền hết hạn; Công việc được uỷ quyền đã hoàn thành; Bên uỷ quyền, bên được uỷ quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo quy định tại Ðiều 588 của Bộ luật này; Bên uỷ quyền hoặc bên được uỷ quyền chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết. Do vậy, trong trường hợp này bạn phải làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế căn nhà trên, và quyền sử dụng đất nếu bố, mẹ bạn trước khi mất để lại di chúc thì khai nhận di sản thừa kế theo Di chúc. Nếu không để lại Di chúc thì khai nhận thừa kế theo pháp luật về hàng thừa kế thứ nhất được quy định ĐIểm a, Khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 Ðiều 676. Người thừa kế theo pháp luật Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
Xin chào Dân luật ! Tôi có 1 vấn đề muốn hỏi như sau :gia đình chồng tôi có 2 chị em . Bố mẹ chồng tôi có 1 cái nhà ở Nam định .bố chồng tôi đã mất cách đây 3 năm và không để lại di chúc . Chị chồng tôi thì đã lập gia đinh và ở riên trên ha nội . Vợ chồng tôi hiện đang ở nước ngoài . Vậy bây giờ mẹ chồng tôi muốn sang tên sổ đỏ cho vợ chồng tôi thì chúng tôi có cần phải về nước hay không ? Và chị chồng tôi có cần phải kí giấy tờ gì liên quan hay không ? Xin cảm ơn
1. Theo thông tin bạn nêu thì bố mẹ chồng bạn có một khối bất động sản là tài sản chung vợ chồng. Bố chồng bạn đã qua đời mà không để lại di chúc. Vì vậy, theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 thì một nửa giá trị ngôi nhà đó sẽ thuộc về hàng thừa kế thứ nhất của bố chồng bạn (ông bà nội của chồng bạn - nếu còn sống; mẹ chồng bạn; chị chồng bạn và chồng bạn). 2. Việc định đoạt tài sản của chồng bạn phải thực hiện thông qua thủ tục khai nhận hoặc phân chia thừa kế. Để thực hiện thủ tục về thừa kế đối với phần di sản của bố chồng bạn bắt buộc phải có chữ ký hợp pháp của tất cả các thừa kế như đã nêu ở trên. Nếu thiếu chữ ký của một người thì thủ tục khai nhận , phân chia thừa kế không thể thực hiện được...
Chào luật sư! Mẹ em mất được 2 năm rồi, khi mẹ mất không để lại di chúc, giấy chứng nhận nhà, đất là mẹ em đứng tên. Mẹ em còn 1 người mẹ ruột (bà ngoại còn sống). Nhà em có ba, anh hai, em gái. Luật sư cho em hỏi, em luật thừa kế thì tài sản sau khi me em mất được phân chia như thế nào? Thời gian sau khi me em mất thì tối đa là bao nhiêu lâu phải làm thủ tục sang tên sổ đỏ. Hiện tại, ba em có bạn gái, người này lại có con riêng. Anh hai và em gái đều lập gia đình không ở chung  với bố. Em phân vân lắm em sợ có tranh chấp về sao này vì nghe nói người phụ nữ ba em quen không tốt. Hai anh em của em thì rất đồng thuận với nhau.
Sau khi mẹ mất ko để lại di chúc thì tài sản chung cả cha và mẹ em được chia thành hai phần: 1/2 là của cha em và 1/2 là di sản thừa kế của mẹ em được chia theo quy định của pháp luật: chia đều cho các đồng thừa kế của mẹ em gồm, bà ngoại, cha em và các con của mẹ em mỗi người một phần bằng nhau. Trên cơ sở đó, các đồng thừ kế của mẹ em phải đến văn phòng công chứng để chứng thực việc khai nhận di sản thừa kế và sau đó tiến hành sang tên quyền sử dụng đất trong phạm vi phần của mình được nhận
Kính gửi luật sư, Hồi trước gia đình tôi có nợ dì tôi với số tiền 600tr do làm ăn thua lỗ, nhưng dì bảo cứ từ từ trả, nên gia đình tôi lo trả nợ cho những chủ nợ khác, bây giờ đùng 1 phát gia đình dì lại kiện gia đình tôi để đòi nợ và đã thắng kiện, gấp quá gia đình tôi không kịp trở tay và không có tiền trả liền, bây giờ thi hành án đang kê biên tài sản gia đình tôi. Tôi đã nói muốn thỏa thuận với dì, dì không chịu và bảo giờ 1 là sang tên cho dì, 2 là để thi hành án tiếp tục làm việc. Dì bảo cứ sang tên đất rồi đất vẫn cho gia đình tôi làm việc để trả nợ dần, trả xong trước 150tr thì dì sẽ sang tên đất lại cho tôi, còn lại 450 thì trả từ từ về sau, cùng các lời lẽ dụ ngọt, dì còn bảo nếu gia đình tôi sợ dì cướp đất thì dì sẽ làm cam kết cùng lên công chứng với gia đình tôi. Hiện thời gian quá gấp, gia đình tôi không thể bán tài sản trả được, nếu thi hành án làm việc thì giá đất sẽ bị chèn, gia đình tôi đành chấp nhận sang tên đất cho dì. Tôi biết trong đây có thể có sự lừa lọc nào đó, theo kinh nghiệm nhiều năm của luật sư phán đoán liệu dì có ý đồ cướp đất gia đình tôi không. Bây giờ tôi bảo nếu sang tên thì muốn được cùng đứng tên đất, dì cũng không chấp nhân, gia đình tôi giờ vào thế bí không thể quyết định được gì cả để mặc dì muốn sao thì muốn thôi. Dì bảo sẽ làm cho tôi bản cam kết và lên công chứng, tất cả chỉ là lời nói hiện tại của dì, nhưng sang tên cho dì thì coi như đất là của dì, dì có mọi quyền quyết định nó, Hiện gia đình tôi không có quyền trong sổ đỏ, giờ chỉ mong quý luật sư giúp đỡ, hướng dẫn gia đình tôi làm 1 bản cam kết lên công chứng thật rõ ràng, có hiệu lực pháp lý, ràng buộc dì về mảnh đất này, chúng tôi ko cho phép dì bán, chuyển nhượng, cắt đất, sang tên cho dì; miếng đất sang tên chúng tôi vẫn cho người ta thuê như hiện giờ để trả nợ dần cho dì; dì nói gia đình tôi sang tên đất là vì dì sợ gia đình tôi không trả nợ đúng như đã hứa thôi; sang tên đất gia đình tôi vẫn có toàn quyền sử dụng miếng đất này, Xin luật sư giúp đỡ, vì thời gian cũng đang rất gấp, mong nhận được sự tư vấn sớm nhất của luật sư. Chân thành cảm ơn!
Gia đình bạn vay nợ của gì bạn số tiền 600 triệu đồng, theo quy định của pháp luật thì bên vay phải có nghĩa vụ trả nọ cho bên cho vay. Hiện nay gì bạn đã khởi kiện, thắng kiện và đang yêu cầu Cơ quan thi hành án thu hồi số tiền. Việc làm của gì bạn là đúng pháp luật. Theo luật thì Cơ quan thi hành án có quyền kê biên đối với tài sản của gia đình bạn để bán đấu giá, trong trường hợp này họ đã kê biên đất của gia đình bạn. Vì thế họ sẽ tiến hành bán đấu giá, số tiền bán đấu giá sẽ thực thanh toán cho khoản nợ còn lại sẽ hoàn lại cho gia đình bạn. Trong thời gian thi hành án, gia đình bạn và gì bạn vẫn có quyền thỏa thuận thi hành án. Phương án của gì bạn cũng có hướng hợp lý hợp tình, tuy nhiên bạn cũng nên xem xét thực tế về giá trị QSDĐ của gia đình mình. Nếu giá trị thực cao hơn nhiều lần số tiền nợ của gì bạn là 600 triệu thì nên để tổ chức bán đấu giá, như vậy sẽ có lợi hơn. Còn nếu giá trị thấp hơn số tiền nợ thì phương án của gì bạn đưa ra cũng khả thi. Trong trường hợp này hai bên ra văn phòng công chứng làm hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ để tránh tranh chấp và kiện tụng về sau.