Question
stringlengths
0
11.9k
Answer
stringlengths
0
26.8k
Người gửi: Trần Thị Hoa Địa chỉ: Phòng Tư pháp huyện Bắc Trà My, Số điện thoại: 01696841448, Email: [email protected] Câu hỏi: Bạn Trần Thị Hoa, Phòng Tư pháp huyện Bắc Trà My (ĐT: 01696841448, Email: [email protected]), hỏi: “Chị S và anh C đăng ký kết hôn năm 2005, năm 2007 chị S sinh được một cháu bé. Đến năm 2010, chị S và anh C ly hôn. Trước khi kết hôn với anh C, chị S có quan hệ tình cảm với anh K (đã có vợ). Trong thời kỳ hôn nhân với anh C, chị S vẫn giữ mối quan hệ với anh K và theo chị đứa con sinh ra là con của anh K. Tuy nhiên, khi đăng ký khai sinh cho con, vì đang trong thời kỳ hôn nhân với anh C, nên trong Giấy khai sinh chị phải ghi tên cha đẻ của đứa bé là anh C. Hiện nay chị S đã ly hôn với anh C và muốn con mình được nhận anh K là cha đẻ theo nguyện vọng. Vậy phải làm thế nào?”
Việc xin xác định cha, mẹ, con là quyền dân sự của mỗi cá nhân. Theo quy định của pháp luật hiện hành việc xác định cha, con theo yêu cầu của tình huống nói trên, bạn có thể tiến hành như sau: Theo Điều 25, Luật Hộ tịch 2014, quy định: Người yêu cầu đăng ký nhận cha, con nộp tờ khai theo mẫu quy định và chứng cứ chứng minh quan hệ cha con cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Khi đăng ký nhận cha, con các bên phải có mặt. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định, nếu thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng và không có tranh chấp, công chức tư pháp - hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người đăng ký nhận cha, con ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích lục cho người yêu cầu. Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không quá 05 ngày làm việc. Theo hướng dẫn tại Điều 11, Thông tư 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp, thì chứng cứ chứng minh quan hệ cha con bao gồm: + Văn bản của cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan khác có thẩm quyền ở trong nước hoặc nước ngoài xác nhận quan hệ cha con. + Trường hợp không có văn bản trên thì phải có thư từ, phim ảnh, băng, đĩa, đồ dùng, vật dụng khác chứng minh mối quan hệ cha con và văn bản cam đoan của cha, mẹ về việc trẻ em là con chung của hai người, có ít nhất hai người thân thích của cha, mẹ làm chứng. (Cơ quan đăng ký hộ tịch có trách nhiệm giải thích rõ trách nhiệm, hệ quả pháp lý của việc cam đoan, làm chứng không đúng sự thật). Để xác định có tranh chấp giữa các bên hay không, sau khi nhận được đơn yêu cầu đăng ký nhận cha, con từ anh K hoặc chị S (đại diện cho cháu bé), công chức Tư pháp – Hộ tịch cần thông báo cho anh C biết đầy nội dung sự việc và yêu cầu anh C có ý kiến bằng văn bản về việc anh có công nhận cháu bé do chị S sinh ra không phải là con đẻ của anh hay không. Nếu anh C có văn bản không thừa nhận đứa bé do chị S sinh ra là con đẻ của anh thì công chức Tư pháp – Hộ tịch mời chị S cùng cháu bé và anh K đến trụ sở UBND cấp xã (cùng với 02 người thân thích của anh K và chị S biết rõ sự việc hai người có quan hệ với nhau trước đây làm chứng) để làm thủ tục nhận cha – con. Trường hợp anh C cho rằng đứa bé do chị S sinh ra là con đẻ của anh thì công chức Tư pháp - Hộ tịch hướng dẫn các bên gửi đơn yêu cầu Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Lưu ý trong trường hợp này, sau khi giải quyết xong việc nhận cha con, nếu cháu bé (chị S đại diện) có yêu cầu thay đổi lại họ và tên đệm theo họ của anh K thì công chức Tư pháp - Hộ tịch có trách nhiệm thực hiện việc thay đổi, cải chính hộ tịch theo quy định của pháp luật./.
Cơ quan đăng ký hộ tịch là gì?
Căn cứ pháp lý: Điều 4 Luật Hộ tịch 2014 Cơ quan đăng ký hộ tịch là Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã), Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và đơn vị hành chính tương đương (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp huyện), Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài (sau đây gọi là Cơ quan đại diện).
Cơ sở dữ liệu hộ tịch là gì?
Căn cứ pháp lý: Điều 4 Luật Hộ tịch 2014 Cơ sở dữ liệu hộ tịch là tập hợp thông tin hộ tịch của cá nhân đã đăng ký và lưu giữ trong Sổ hộ tịch và Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.
Sổ hộ tịch là gì?
Căn cứ pháp lý: Điều 4 Luật Hộ tịch 2014 Sổ hộ tịch là sổ giấy được lập và lưu giữ tại cơ quan đăng ký hộ tịch để xác nhận hoặc ghi các sự kiện hộ tịch quy định tại Điều 3 của Luật này.
Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu hộ tịch gồm những cơ quan nào?
Căn cứ pháp lý: Điều 4 Luật Hộ tịch 2014 Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu hộ tịch gồm cơ quan đăng ký hộ tịch, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và cơ quan khác được giao thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Trích lục hộ tịch là gì?
Căn cứ pháp lý: Điều 4 Luật Hộ tịch 2014 Trích lục hộ tịch là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp nhằm chứng minh sự kiện hộ tịch của cá nhân đã đăng ký tại cơ quan đăng ký hộ tịch. Bản chính trích lục hộ tịch được cấp ngay sau khi sự kiện hộ tịch được đăng ký. Bản sao trích lục hộ tịch bao gồm bản sao trích lục hộ tịch được cấp từ Cơ sở dữ liệu hộ tịch và bản sao trích lục hộ tịch được chứng thực từ bản chính.
Thay đổi hộ tịch là gì?
Căn cứ pháp lý: Điều 4 Luật Hộ tịch 2014 Thay đổi hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thay đổi những thông tin hộ tịch của cá nhân khi có lý do chính đáng theo quy định của pháp luật dân sự hoặc thay đổi thông tin về cha, mẹ trong nội dung khai sinh đã đăng ký theo quy định của pháp luật.
Cải chính hộ tịch là gì?
Căn cứ pháp lý: Điều 4 Luật Hộ tịch 2014 Cải chính hộ tịch là việc chỉnh sửa thông tin cá nhân trong Sổ hộ tịch hoặc trong bản chính giấy tờ hộ tịch và chỉ được thực hiện khi có đủ căn cứ để xác định có sai sót do lỗi của công chức làm công tác hộ tịch hoặc của người yêu cầu đăng ký hộ tịch.
Xin luật sư cho tôi một vài tư vấn như sau: Tôi và chồng tôi đã cưới nhau được hai năm nhưng sống ly thân gần một năm nay và đã có một con trai 15 tháng, năm đầu tiên chúng tôi sống khá hạnh phúc nhưng từ khi sinh con anh ấy bắt đầu bỏ bê gia đình và không có trách nhiệm gì với con cái. Hiện nay cả hai chúng tôi đều muốn li hôn, chồng tôi giờ không có việc làm và không có thu nhập, hàng tháng ông bà nội gửi tiền nuôi con cho tôi thay cho con trai ông bà và tiền đó là tiền thuê nhà hàng tháng mà 1 cửa hàng thuê nhà ông bà dưới tầng 1. Tôi đang làm nhân viên văn phòng cho một công ty cổ phần, Xin hỏi luật sư nếu ly hôn thì tòa sẽ xử như thế nào về trách nhiệm nuôi con với anh ta (không có công việc và thu nhập) ông bà nội có phải có trách nhiệm nuôi cháu thay con trai hay ko ? Vì tôi nghĩ nếu ko có thu nhập thì không đưa tiền nuôi con như thế anh ta sẽ không có bất cứ trách nhiệm gì với con cái (cả nuôi dậy và tiền nong)? và nếu như tòa đã xử phải đưa tiền nuôi con mà anh ta chây ỳ ko đưa thì tôi phải làm như thế nào. Thứ 2: Tòa có xét xử về phần di chúc sau này cho con trai tôi không, cháu là cháu trưởng họ (hiện tôi không có tài sản chung với chồng và gia đình nhà chồng) vì tôi muốn có sự dàng buộc về mặt tình cảm và trách nhiệm của cả ông bà và chồng tôi với con tôi, còn thật sự tôi không phải là người tham thố tiền bạc. Thứ 3:  Thủ tục ly hôn đồng thuận có mất nhiều thời gian để giải quyết hay ko? Vì thật sự chồng tôi là người rất vô trách nhiệm, đến con cái mà anh ta còn ko thèm quan tâm và nuôi dưỡng cùng với tôi thì tôi nghĩ dù có sự hòa giải của tòa án cũng không giải quyết dc gì và tôi rất muôn luật sư tư vấn cánh nào để tòa xử nhanh nhất. Xin chân thành cảm ơn và rất mong nhận được câu trả lời!
1. Khi bạn và chồng ly hôn, do con bạn mới 15 tháng tuổi nên về nguyên tắc bạn là người trực tiếp nuôi con và chồng bạn có nghĩa vụ cấp dưỡng. Mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được, Tòa án sẽ căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng để giải quyết. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể chuyển giao cho người khác. Vì thế, ông bà nội không có nghĩa vụ thay con trai mình thực hiện việc cấp dưỡng cho cháu. Khi chồng không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo nội dung trong bản án, quyết định cho ly hôn đã có hiệu lực của tòa. Bạn có quyền nộp đơn yêu cầu cơ quan thi hành án buộc chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đó. 2. Mặc dù đã ly hôn, nhưng con bạn vẫn được thừa kế phần di sản của cha và ông bà nội theo quy định của pháp luật. Cụ thể: Nếu khi qua đời chồng bạn để lại di chúc, di sản của chồng bạn được chia theo nội dung di chúc, nếu không để lại di chúc, di sản được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất (bao gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết). Nếu bố mẹ chồng của bạn qua đời và để lại di chúc, di sản được chia theo nội dung di chúc. Nếu ông bà không để lại di chúc, di sản được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Nếu không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản thì di sản được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ hai. Trường hợp con bạn là cháu nên thuộc hàng thừa kế thứ hai. 3. Thời gian giải quyết ly hôn: 4-6 tháng.
Thưa Luật sư, Ông bà tôi có 2 người con là mẹ tôi và bác trai. Năm 1980, lúc ông bà tôi già yếu và mẹ tôi đã lấy chồng và ra ở riêng thì bác tôi bỏ nhà, vượt biên và sang nước thứ 3 là Mỹ (đến nay chưa nhập quốc tịch Mỹ). Bố mẹ tôi đã dọn về ở và chăm sóc ông bà. Bác tôi không hề thông tin, liên lạc hoặc quan tâm gì (cả về vật chất lẫn tinh thần) đến ông bà, gia đình từ năm 1983 đến 2005. Bà tôi mất năm 1983, ông tôi mất năm 1992. Khi mất, bà và ông tôi không để lại di chúc. Năm 2000, mẹ tôi làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận QSDĐ trên phần đất ông bà để lại và đã được cấp năm 2000. Năm 2008, mẹ tôi đã chia cho anh em tôi mỗi người một phần và phần còn lại (~ 600m2) vẫn đứng tên mẹ tôi. Từ năm 2005 đến 2009, bác tôi không có ý kiến/thỏa thuận gì với mẹ tôi về việc phân chia đất. Cuối năm 2009, bác tôi về Việt Nam đòi lại toàn bộ phần đất trước đây của ông bà để lại. Bác tôi không có vợ, con, đã 70 tuổi. Vậy, xin luật sư cho biết việc đòi lại đất của bác tôi có đúng không và giấy chứng nhận QSDĐ của mẹ tôi và anh em tối có đúng pháp luật ? Tôi xin trân trọng cảm ơn và mong nhận được sự giúp đỡ của Luật sư.
Với các nội dung anh nêu như trên thì theo quy định của pháp luật thừa kế thì thời hiệu khởi kiện vụ thừa kế đã hết. Việc mẹ anh được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không trái pháp luật. Về mặt nguyên tắc bác của anh vẫn có thể đòi lại một phần di sản của ông bà anh để lại. Tuy nhiên muốn thực hiện việc này bác của anh phải khởi kiện một vụ án dân sự. Trường hợp nếu được Tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết và phải mở phiên tòa xét xử thì Tòa án cũng sẽ căn cứ vào công sức đóng góp, quản lý trông nom khối tài sản trên để quyết định. Nếu còn vướng mắc anh có thể liên hệ với tôi để được tư vấn chi tiết.
Nếu trường hợp tôi chết đi, những tài khoản của tôi tại ngân hàng VN vợ hoặc con tôi có được thừa hưởng tài sản kể trên không? Nếu được tôi phải làm thủ tục gì? Trường hợp của tôi có được đến cơ quan nhà nước, hoặc luật sư tại VN để làm di chúc cho vợ hoặc con tôi thừa hưởng tài sản kể trên không? Nếu được thì phải đến đâu và thủ tục ra sao? Rất mong sự giúp đỡ của Tạp chí Quê Hương và Văn phòng Luật sư
Theo thông tin bạn cung cấp, chúng tôi xác định rằng, bạn là người Việt Nam định cư tại nước ngoài (Hoa Kỳ) có hai quốc tịch là quốc tịch Việt Nam (theo hộ chiếu Việt Nam) và quốc tịch Hoa Kỳ. Theo đó, quan hệ thừa kế (để lại di sản cho người thân) của bạn được xác định là quan hệ dân sự (thừa kế) có yếu tố nước ngoài theo quy định tại Điều 758 Bộ luật dân sự 2005. Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài này có thể được điều chỉnh bởi cả pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ (quốc gia bạn có quốc tịch và đang sinh sống). Căn cứ theo quy định của pháp luật Việt Nam, chúng tôi trả lời bạn như sau: Quyền được hưởng di sản theo quy định của pháp luật Việt Nam Bộ luật Dân sự 2005 ghi nhận về quyền thừa kế của cá nhân như sau: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật” (Điều 631) và "Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật"(Điều 632). Do vậy, khi bạn qua đời, vợ và con bạn sẽ được hưởng di sản thừa kế của bạn theo quy định pháp luật Việt Nam. Theo đó: Nếu bạn không để lại di chúc: Căn cứ theo quy định tại Điều 767, Bộ luật Dân sự 2005 về Thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài, vợ và con bạn có quyền hưởng thừa kế đối với khoản tiền gửi tại Ngân hàng Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trong trường hợp này, tài sản sẽ được phân chia theo pháp luật cho vợ và con bạn với tư cách là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất khi phân chia di sản. Bạn tham khảo thêm quy định tại Điều 676 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về Người thừa kế theo pháp luật. Nếu bạn để lại di chúc: Khi di chúc được lập phù hợp với quy định pháp luật Việt Nam, vợ và con bạn sẽ hưởng di sản thừa kế theo di chúc này. Lập di chúc ở Việt Nam và những vấn đề liên quan Như đã đề cập, việc lập di chúc là quyền của công dân được luật pháp Việt Nam công nhận. Trong trường hợp bạn lập di chúc tại Việt Nam để định đoạt tài sản là khoản tiền được gửi tại ngân hàng Việt Nam, bạn sẽ không chỉ phải tuân thủ quy định về năng lực lập di chúc mà còn phải tuân thủ các quy định về hình thức để một di chúc có hiệu lực theo pháp luật Việt Nam (Điều 768 Bộ luật dân sự 2005). Bạn có thể tham khảo các quy định về việc lập di chúc, hình thức của di chúc tại các Điều 649, 652, 653, 658 Bộ luật Dân sự 2005. Để lập di chúc tại Việt Nam: Bạn có thể tìm đến các phòng luật sư, cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn tại Việt Nam để lập di chúc cho vợ và con bạn thừa hưởng tài sản là khoản tiền nêu trên. Trong trường hợp bạn lập di chúc tại Văn phòng luật sư, bạn cần lưu ý những vấn đề sau đây: o Những người làm chứng cho việc lập di chúc của bạn (bao gồm luật sư và những người khác) không được là một trong những người sau: § Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; § Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc; § Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự. (Điều 654 Bộ luật dân sự 2005) o Nếu bạn không thể tự mình viết bản di chúc, bạn có thể nhờ luật sư viết nhưng phải có ít nhất hai người làm chứng. Ngoài ra, bạn phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng phải xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc. o Trường hợp bạn lập di chúc tại các cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, bạn tham khảo quy định tại Điều 658 Bộ luật dân sự 2005 về thủ tục lập di chúc tại các cơ quan này.
Các Anh Cho em hỏi?      Bố mẹ em có 3 người con 2 trai và 1 gái, em là út.Vào năm 2001 bố mẹ e có bán 1 căn nhà và lúc đó đã làm 1 tờ giấy  thỏa thuận chia tài sản nội dung như sau:          Căn nhà e được bán với giá 710 triệu đồng và chia cho anh Trai e 200 triệu đồng và chị gái e 50 triệu đồng còn bao nhiêu bố mẹ em mua 1 căn nhà và ghi rõ là ở cùng với con trai út.Tờ thỏa thuận đó được mọi người trong gia đình ký và ghi rõ họ tên. (tờ giấy đó không có người làm chứng hay chính quyền địa phương xác nhận mà chỉ nội bộ trong gia đình)        Nhưng đến năm 2010 bố em mất mà không có di chúc,do đó anh trai em cùng vợ và con lúc đó đã tách khẩu và ko có tên trong hộ khẩu mà căn nhà bố mẹ em đã mua.Quay lại và ở trong nhà em cho dù mẹ em và vợ chồng em nhiều lần yêu cầu và mời ra khỏi nhà.Căn nhà của bố mẹ em đã có sổ đỏ (quyền sự dụng đất nhà ở) và đứng tên bố mẹ em.        Vì vậy các anh cho em hỏi anh trai e có được quyền thừa kế ko khi đã có sự chia tài sản rùi và nếu như em mời chính quyền địa phương bắt buộc anh chị dâu em ra khỏi nhà có được ko?,,Còn em đã được mẹ e và chị e đồng viết giấy ủy quyền rùi,vì thế mong các anh giải thích hoặc cho e 1 lời khuyên bổ ích         Xin Trân thành cám ơn!
Vấn đề quan trọng nhất chính là "tờ thỏa thuận" em lại không trình bày được rõ ràng. Nếu bản thỏa thuận này nêu rõ các anh chị em khác đã được chia phần. Nhà này là phần giành cho em thì đương nhiên không phải chia. Nếu chỉ ghi chung chung là "ở cùng con trai út" thì vẫn có thể phải chia thừa kế. Việc có tên trong hộ khẩu hay không không liên quan đến quyền được thừa kế.
Ông bà nội tôi mất cách đây mười mấy năm và có để lại một căn nhà cho các con. Cô chú trong gia đình tôi có thỏa thuận để dành nhà vào việc thờ cúng và không ai được bán đi. Nay người bác cả của tôi lại tự mình đem chia một phần nhà đó cho con gái của mình ở và chuẩn bị chia “sổ đỏ”. Vậy các cô chú tôi có thể kiện đòi chia di sản thừa kế hay không?
Căn cứ Bộ luật dân sự năm 2005 (BLDS) và Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP. Theo quy định tại Điều 645 BLDS, thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Theo đó, tính đến thời điểm hiện nay, quyền khởi kiện về việc yêu cầu chia di sản thừa kế của các cô chú của bạn đã hết.Tuy nhiên, nếu các cô chú của bạn không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế theo quy định tại điểm a.3 Điều 2.4 tiểu mục 2 mục I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP. Khi đó, cô chú của bạn có thể yêu cầu tòa án chia tài sản chung theo quy định tại Điều 224 BLDS.
Bà Nguyễn Thị Cưng về kiến nghị giải quyết tranh chấp đối với phần tài sản thừa kế là căn nhà số 8A Lý Thường Kiệt, phường 12, quận 5, TP. Hồ Chí Minh, Tòa án nhân dân quận 5, TP Hồ Chí Minh cho biết Tòa cần tiếp tục thu thập chứng cứ mới có thể đưa vụ án ra xét xử được.
Tòa án nhân dân quận 5 đã tiến hành các thủ tục như định giá nhà (hai lần) trưng cầu giám định chữ viết và chữ ký của ông Lê Minh Thạnh trong hợp đồng ủy quyền. Vụ án được tạm đình chỉ số 37/2008/QĐ-TĐC ngày 26/9/2008 do chưa có kết luận giám định. Ngày 6/5/2011, anh Lê Thành Quốc (con của ông Lê Minh Thạnh) đã đủ 18 tuổi và tự đứng đơn tham gia khởi kiện với tư cách đồng nguyên đơn với mẹ là bà Nguyễn Thị Cưng. Theo bà Nguyễn Thị Cưng và anh Lê Thành Quốc thì mục đích chính của việc xin hủy các hợp đồng nêu trên là để bảo đảm quyền được thừa kế nhà của ông Lê Minh Thạnh và từ đó để lại di sản thừa kế cho bà Cưng và anh Quốc sau khi ông Thạnh chết. Vì vậy, các bên cũng đã tìm cách thỏa thuận với nhau, hoặc bà Thu thanh toán một khoản tiền, hoặc bà Thu mua một căn nhà cho anh Quốc đứng tên. Quá trình giải quyết vụ án có kéo dài một phần là do tòa án tạo điều kiện cho các bên tự hòa giải. (Trên thực tế, ngày 7/10/2010, ông Lê Minh Thông rút đơn khởi kiện do hai bên đã tự thỏa thuận được với nhau). Ngày 19/6/2012, Tòa án nhân dân quận 5 đã mời các bên lên hòa giải một lần nữa nhưng hai bên không thỏa thuận được. Bà Cưng và anh Quốc yêu cầu tòa án đưa vụ án ra xét xử. Tuy nhiên, ngày 2/7/2012, người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Cưng là ông Nguyễn Hoàng Hùng có đơn yêu cầu thu thập chứng cứ về tình trạng hiện tại của căn nhà đang tranh chấp (được biết đã giải chấp ngân hàng và bán cho người khác). Nên tòa cần tiếp tục thu thập chứng cứ mới có thể đưa vụ án ra xét xử được.
Căn nhà tại TP.HCM (sau đây gọi là “Căn nhà”) nguyên do cha tôi (Nguyen Huu D) và mẹ tôi (Nguyen Quy N) mua có văn tự đoạn mãi lập ngày 15/5/1964, trước bạ và chứng nhận của Hội đồng xã PN. Tháng 5/1975, Căn nhà bị tiếp quản và lấy làm kho gạo nhưng sau nhiều năm gia đình khiếu nại, UBND phường và UBND quận đã chính thức trả lại Căn nhà cho mẹ tôi (có quyết định bằng văn bản). Tháng 5/1989, gia đình tôi xuất cảnh hợp pháp sang Hoa Kỳ, mẹ tôi có khai báo tất cả bất động sản ở Việt Nam và có nhờ người nhà thỉnh thoảng đến trông nom, dọn dẹp Căn nhà. Tháng 3/1992, mẹ tôi về nước có viết giấy ủy quyền (viết tay, không có công chứng) cho anh tôi là Nguyen Huu H trông coi Căn nhà, trong đó có nhấn mạnh không được phép sang nhượng hay cho thuê dưới bất kỳ hình thức nào. Tháng 6/1992, mẹ tôi làm tờ hủy bỏ giấy ủy quyền năm 1992 (có chứng thực của UBND phường) do anh tôi trước đó đã tự ý cho thuê. Người thuê nhà đã dọn ra khỏi nhà tôi ngay sau đó. Tháng 02/1994, mẹ tôi về nước và phát hiện có người lạ ở trong nhà, mẹ tôi báo cho Công an phường và Công an quận yêu cầu giải quyết nhưng vì lý do sức khỏe nên mẹ tôi phải trở về Mỹ. Sau đó, chúng tôi có liên lạc với chị L.T (người ở trong Căn nhà), chị nói là mua nhà từ anh tôi và đã trả 50 lượng nhưng do biết anh tôi không phải là chủ sở hữu nên việc mua bán bị tạm ngưng lại. Tháng 7/2005, chị em tôi liên lạc và yêu cầu chị T thu xếp dọn ra khỏi nhà vì chúng tôi sẽ khởi kiện đòi lại nhà. Sau đó, theo lời chị T, chúng tôi được biết chị T đã đưa thêm 10 cây vàng và yêu cầu anh tôi bán Căn nhà cho Nguyen Duc L (chúng tôi không biết họ dùng giấy tờ nào để mua bán). Tháng 4/2007, Nguyen Duc L đã bán Căn nhà cho bà Nguyen Thi T.. Ngày 22/10/2007, mẹ tôi nhờ anh Bui Van P nộp đơn đòi lại nhà và yêu cầu trục xuất người chiếm nhà bất hợp pháp, đơn được gửi đến UBND phường và quận và có giấy biên nhận đơn. Ngày 26/11/2007, cán bộ tiếp dân của UBND quận và bí thư phường mời anh P đến P. 14 làm việc và yêu cầu anh P sửa lại là Đơn đòi nhà, đồng thời cho biết trong vòng 2 năm (2006 và 2007) cơ quan có thẩm quyền đã ra 04 quyết định thu hồi, hoá giá, cấp nhà tiêu chuẩn…, trong đó, 02 quyết định do phó chủ tịch UBND quận ký và 02 quyết định do phó chủ tịch UBND thành phố ký. Ngày 18/02/2008, mẹ tôi qua đời. Ngày 12/5/2008, tôi đến UBND quận yêu cầu giải quyết đơn khởi tố nộp ngày 22/10/2007 thì được cán bộ tiếp dân cho biết đơn của chúng tôi đã bị thất lạc và yêu cầu nộp đơn lại và hức hẹn sẽ giải quyết. Ngày 18/5/2008, chúng tôi nộp đơn lần thứ hai và tiếp tục chờ đợi. Cha tôi đã qua đời năm 1998. Cha mẹ tôi qua đời không để lại di chúc và ông bà nội, ngoại của tôi cũng đã qua đời từ lâu. Cha tôi và chúng tôi mang quốc tịch Mỹ, còn mẹ tôi vẫn còn quốc tịch Việt Nam. Xin hỏi: 1. Chúng tôi có phải là người thừa kế hợp pháp theo pháp luật Việt Nam hiện hành hay không? 2. Tôi có quyền tiếp tục đơn của mẹ tôi trong vụ kiện đòi nhà hay không? 3. Người anh không phải là chủ sở hữu Căn nhà có quyền đứng ra hiến Căn nhà cho Nhà nước hay không và khi hiến nhà phải xuất trình những giấy tờ gì? 4. Nếu tôi là người thừa kế và được quyền tiếp tục đơn kiện, xin hỏi tôi phải làm thủ tục gì để đòi lại Căn nhà? Chúng tôi là người Việt Nam mang quốc tịch nước ngoài, vậy chúng tôi có được quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết đối với những cán bộ nhà nước đã ban hành những quyết định trái pháp luật hay không? Chúng tôi làm như vậy có vi phạm pháp luật Việt Nam về vấn đề an ninh trật tự nhà nước hay không? (Kristina Nguyen)
1. Điều 767 Bộ luật Dân sự Việt Nam (“BLDS”) quy định thừa kế theo pháp luật phải tuân theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết. Do đó, theo quy định nói trên thì việc xác định người có quyền thừa kế di sản của cha bà phải căn cứ vào các quy định của pháp luật Mỹ. Mẹ của bà có quốc tịch Việt Nam nên khi mẹ của bà qua đời mà không để lại di chúc (ông bà nội ngoại đã qua đời trước mẹ của bà) thì những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của mẹ bà, bao gồm: bà và các anh, chị, em của bà, kể cả con nuôi của mẹ bà (nếu có), có quyền thừa kế đối với di sản của mẹ bà theo quy định tại Điều 631 BLDS. Tuy nhiên, đối với di sản là bất động sản ở tại Việt Nam thì việc thừa kế theo pháp luật còn phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh đối với bất động sản đó, ví dụ Luật Nhà ở, Luật Đất đai v.v.. 2. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì khi quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, bà có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết, thông qua việc khiếu nại, tố cáo đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện tại Tòa án v.v.. Việc xác định quyền sở hữu của mẹ bà đối với căn nhà có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của những người thừa kế của mẹ bà, trong đó có bà và các anh, chị, em của bà. Do vậy, bà và các anh, chị, em của bà hoàn toàn có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết vấn đề nói trên. 3. Theo quy định tại Điều 164 BLDS thì chỉ có chủ sở hữu mới có quyền định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu của mình. Do vậy, người anh của bà nếu không phải là chủ sở hữu (không có căn cứ chứng minh mình là chủ sở hữu) thì không có quyền định đoạt đối với Căn nhà, nghĩa là không có quyền hiến Căn nhà cho Nhà nước. Tuy nhiên, xin giải thích thêm trong trường hợp người anh của bà không chứng minh được mình là chủ sở hữu và Căn nhà thuộc diện nhà vắng chủ (không xác định được chủ sở hữu) hoặc những trường hợp được phân tích ở bên dưới đây thì có thể Căn nhà được Nhà nước quản lý, bố trí sử dụng theo các quy định pháp luật, chứ không phải là người anh này hiến Căn nhà cho Nhà nước. 4. Để xác định được thủ tục mà bà phải thực hiện để đòi lại Căn nhà thì trước hết phải làm rõ các quy định của pháp luật đối với trường hợp nhà vắng chủ do chủ sở hữu xuất cảnh (trước ngày 01/7/1991). Theo quy định pháp luật, có thể chia thành ba trường hợp như sau: (i) Trường hợp Căn nhà thuộc diện Nhà nước quản lý, bố trí sử dụng theo quy định tại Nghị quyết 23 đồng thời Nhà nước đã có văn bản quản lý và đã bố trí cho người khác sử dụng thì Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại nhà đất. Do đó, nếu thuộc trường hợp này thì gia đình bà không thể đòi lại Căn nhà. (ii) Trường hợp Căn nhà thuộc diện Nhà nước quản lý, bố trí sử dụng theo quy định tại Nghị quyết 23 nhưng trên thực tế Nhà nước Việt Nam vẫn chưa có văn bản quản lý và cũng chưa bố trí cho ai sử dụng, đến nay Căn nhà vẫn còn do khi đi xuất cảnh cha mẹ của bà có cho người khác thuê, mượn, ở nhờ hoặc giao cho người thân thích quản lý và sử dụng nhà và đất, thì nay gia đình bà có thể lấy lại Căn nhà theo quy định tại Nghị quyết 755. (iii) Trường hợp Căn nhà không thuộc diện Nhà nước quản lý, bố trí sử dụng và trước khi đi xuất cảnh, gia đình bà có cho người khác ở thuê, mượn, ở nhờ hoặc ủy quyền cho người thân thích quản lý và sử dụng nhà ở, thì nay gia đình bà có thể lấy lại Căn nhà theo quy định của Nghị quyết 1037. Như vậy, nếu thuộc trường hợp được lấy lại nhà theo quy định pháp luật (tức là thuộc trường hợp (ii) hoặc (iii) nêu trên) thì mẹ bà (hoặc những người thừa kế của mẹ bà) có thể thực hiện các thủ tục để lấy lại nhà theo quy định tại Nghị quyết 1037. Cụ thể, phải thực hiện thủ tục thông báo trước cho bên thuê, mượn, ở nhờ nhà ở hoặc người đang quản lý, sử dụng nhà ở một khoảng thời gian và phải thanh toán cho người đó các khoản tiền liên quan đến việc cải tạo, sửa chửa, nâng cấp, v.v... Trong trường hợp đã thực hiện đúng và đầy đủ các thủ tục luật định mà người đang quản lý, sử dụng Căn nhà không trả lại nhà thì chị em bà có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Mặt khác, nếu thuộc trường hợp đã có văn bản của cơ quan có thẩm quyền về việc quản lý, bố trí Căn nhà cho người khác sử dụng nhưng bà có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì bà có thể thực hiện thủ tục khiếu nại, tố cáo đối với quyết định hành chính, hành vi hành đó (theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo). Tuy nhiên, cần lưu ý thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính. Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà bà không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu, thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại. 5. Theo Điều 1 Luật Khiếu nại, tố cáo thì công dân có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình (lưu ý phải còn thời hiệu khiếu nại như đã phân tích ở trên đây). Như vậy theo quy định nói trên, bà hoàn toàn có quyền khiếu nại quyết định hành chính trái pháp luật của người (hoặc cơ quan) có thẩm quyền ban hành khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật và xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của bà. //CONTENT
Hai anh em tôi là Việt kiều Pháp, mẹ mất, chỉ con cha ở TP.HCM. Nếu cha tôi làm di chúc hoặc giấy tang (trước khi qua đời), căn nhà mà cha và chị chúng tôi đang ở thì anh em tôi có quyền thừa kế hoặc nhận phần tang không? Nên để cha tôi cho một mình chị chúng tôi đứng tên hay cứ để chia đều cho cả ba người? Thủ tục, thuế như thế nào? Nếu cho thuê hoặc bán, anh em chúng tôi (đang ở nước ngoài) có được hưởng phần của mình không?
Do mẹ bạn chết không để lại di chúc, nếu căn nhà thuộc sở hữu chung của cha và mẹ bạn thì ½ căn nhà thuộc quyền sở hữu của cha bạn, còn laị ½ căn nhà thuộc di sản thừa kế theo pháp luật. Theo Điều 676 Bộ Luật Dân sự quy định hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Theo đó, ½ căn nhà sẽ chia đều cho bốn người gồm cha, chị và hai anh em bạn theo quy định của pháp luật. Để sở hữu nhà ở tại Việt Nam hai anh em bạn phải có đủ điều kiện theo quy định tại Luật sửa đổi bổ sung Điều 126 của Luật Nhà Ở và Điều 121 của Luật đất đai. Khi căn nhà trên nói trên được cho thuê hoặc chuyển nhượng thì hai anh em bạn vẫn được hưởng phần tương ứng với giá trị được thừa hưởng theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Luật Thuế Thu nhập Cá Nhân quy định trường hợp được miễn thuế gồm: Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau //CONTENT
Xin LS cho em hỏi? Cha mẹ em có sổ đỏ tổng diện tích 10.000m2, nay cha mẹ già và muốn cho đất 2 anh em của em, cắt thửa đất đó chia 2(đất ruộng 36m2)? Vậy thủ tục chuyển quyền sử dụng đất và làm sổ đỏ mới cho 2 anh em em như thế nào? Không làm hợp đồng đo đạt đất mà anh em tự thỏa thuận cắm ranh được không? Và tất cả các loại phí như thế nào?
Cha mẹ bạn cần làm thủ tục tặng cho 2 anh em bạn. Các bên lập hợp đồng tặng cho tại phòng Công chứng, sau đó làm thủ tục sang tên sổ đỏ tại phòng tài nguyên và môi trường.
Cha em hiện dang đứng tên trên sổ đỏ một phần đất khoảng : 1.000 m2, và hiện tại cha em đã mất nhưng sổ đỏ vẫn còn đứng tên cha em. Nhà em co 3 anh em (1 trai và 2 gái), năm 2011, mẹ em đã cho 3 đứa con 3 phần đất (bao gồm nhà): Anh trai chia cho nhà thờ (100m2), chị gái (50m2) và em (50m2) tất cả 3 anh em điều đã được cấp sổ hồng và mỗi người đứng tên phần nhà đất của mình vào tháng 08/2012. Phần đất còn lại của cha em đứng tên thì hiện tại cho các cô chú là em ruột của ba xây nhà ở, chỉ cho ở như vậy và ngày xưa ông nội em có hứa cho chứ không có một giấy tờ nào, nhưng thời gian gần đây cô em đòi làm sổ hồng cho phần đất mà ông nội em hứa đó nhưng em và chị gái em không đồng ý ký tên cho nên cô không làm được và đòi kiện 2 chị em của em ra tòa và hâm dọa nếu không ký sẽ cho gian hồ đánh 2 chị em buộc phải ký và kiện ra tòa để lấy lại 2 sổ hồng của 2 chị em đã cấp. Em giải thích thêm lý do tại sao mà 2 chị em của em không đồng ý ký: 2 chị em của em không tranh giành gì và cũng không muốn lấy lại phần đất mà cô chú đang ở nhưng em sẽ không ký do cô chú đối xử với mẹ em rất tệ, cha em bị tai biến hai mươi mấy năm mới mất năm 2007, một mình mẹ em lo hết, những lúc khó khăn nhờ cô giúp đỡ nhưng cô không giúp mặc dù cô rất giàu có và có mấy căn nhà ở Sài Gòn, sau khi ba em mất một thời gian và mẹ em cũng bệnh nặng nhưng cô chú không ai một lời hỏi thăm, còn tệ hơn người dưng.Vì thế em rất giận cô chú và không muốn ký tá gì hết vì em nghĩ họ sống không có tình nghĩa, chỉ biết có tiền và tài sản. Xin cho em hỏi như sau: 1/ Cô em có quyền gì để kiện 2 chị em của em để lấy  lại 2 sổ hồng đã cấp và đã được bốn người ký tên ngoài xã đồng ý cho làm sổ hồng: anh em, chị em, mẹ em và em không? 2/ Cô em hâm dọa em bằng tin nhắn em còn lưu lại thì em có thể nhờ cơ quan nào giải quyết để ngăn chặn sự hâm dọa đó không? 3/ Nếu em và chị em cương quyết không ký thì có ảnh hưởng gì đến em không?
Trước hết, tôi muốn bạn ghi nhận một điều là: Luật sư chỉ tư vấn về mặt pháp luật và trong các ý kiến tư vấn đó, bạn tự so sánh, cân nhắc mọi quyền và lợi ích của mình để quyết định nên "lời khuyên tốt nhất" mà tôi có thể khuyên bạn là hãy thật bình tĩnh và sáng suốt trước khi quyết định hay thực hiện phương án đã chọn. Về câu chuyện của bạn, tôi có ý kiến cụ thể như sau: - Tôi chia sẻ và gửi lời thông cảm với bạn trong cách người khác đối xử với gia đình bạn khi khó khăn. Tuy nhiên, khi các bạn (có quyền) ký giấy tờ, đồng nghĩa bên kia đang phải "nhờ". Đây cũng là cơ hội tốt cho các bên cởi bỏ nút thắt trong quan hệ và bạn có thể tận dụng. - Về mặt pháp lý: Bên kia biết vị thế của họ nên mới phải nhờ các bạn ký nên tôi nghĩ chắc bạn cũng đã biết ít nhiều về cơ sở pháp lý của mình. Đây là di sản của bố bạn và đã được nhà nước thừa nhận qua việc cấp sổ đỏ nên chỉ những người theo hàng thừa kế thứ nhất (cha mẹ, vơ, con) mới có quyền thừa kế (bạn không nêu về di chúc nên coi như không có di chúc). Các cô chú của bạn muốn tranh chấp di sản thừa kế theo đường kiện tụng theo tôi là không khả thi nếu chỉ có những thông tin như bạn đã nêu. Họ vẫn có thể kiện nếu có căn cứ, tuyên nhiên việc họ thắng kiện trong trường hợp như bạn nêu là rất khó thuyết phục bằng cơ sở pháp lý. - Các bạn có thể làm đơn đề nghị chính quyền lưu ý can thiệp trên cơ sở các tin nhắn nhận được. - Ký hay không là quyền của các bạn chứ không phải nghĩa vụ. Vì vậy, một lần nữa tôi nhắc bạn là hãy cân nhắc mọi khía cạnh trước khi quyết định.
Xin chào luật sư, tôi có một thắc mắc mong luật sư giải đáp. Bố mẹ tôi kết hôn hợp pháp với nhau và sinh ra tôi. Ngoài tôi ra bố tôi còn có 2 người con riêng nữa. Năm 1989 bố mẹ tôi có mua 1 mảnh đất ( do mẹ tôi đứng tên mua ). Năm 1997 thì bố tôi mất. Năm 2002, thì 2 người con riêng của bố tôi tách khẩu ra ở riêng và lập gia đình. Năm 2011 mẹ tôi có kế hoạch làm sổ đỏ mảnh đất này và khi làm xong sổ đỏ mẹ tôi sẽ viết giấy ủy quyền sử dụng hoàn toàn mảnh đất này cho tôi khi bà qua đời. Vậy cho tôi hỏi sau này 2 người con riêng của bố tôi có quyền tranh chấp đất đai với tôi sau này không. Nếu họ có quyền tranh chấp thì tôi phải làm sao giữ được mảnh đất này vì 2 người con riêng của bố tôi đã có đất riêng của mỗi người rồi Rất mong nhận được tư vấn của luật sư.
1. Theo thông tin mà bạn nêu thì thửa đất trên là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của bố mẹ bạn (tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân) do vậy bố bạn có quyền sở hữu ½ tài sản và mẹ bạn có quyền sở hữu ½ tài sản. Phần tài sản của bố bạn trở thành di sản của các thừa kế của bố bạn (bao gồm ông bà nội bạn, mẹ bạn và các anh, chị em bạn) từ khi bố bạn chết (năm 1997). Tuy nhiên, đến nay (2011) đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế của bố bạn nên nếu có tranh chấp về thừa kế của bố bạn thì Tòa án sẽ không thụ lý, người đang sử dụng được tiếp tục sử dụng. Do vậy, hai người anh cùng cha khác mẹ với bạn sẽ không còn cơ hội đòi chia thừa kế đối với di sản do bố bạn để lại (vì đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế); 2. Đối với phần tài sản của me bạn: Mẹ bạn có quyền sở hữu ½ tài sản đó do vậy mẹ bạn có quyền định đoạt đối với phần tài sản đó cho bạn theo hình thức tặng cho hoặc di chúc. Đối với phần đất của bố bạn thì bạn sẽ tiếp tục được sử dụng cho đến khi đủ điều kiện được cấp GCN QSD đất (sử dụng 30 năm).
Cháu xin hỏi luật sư về việc gia đình nhà cháu mong luật sư giúp đỡ. Sau đây cháu xin trình bày sự việc: ông bà nội cháu sinh được 4 người con. 2 trai, 2 gái, bố cháu là con út. Bố mẹ cháu xây dựng gia đình vào năm 1993 đến năm 95 tkì sinh được 1 cháu gái. Bố mẹ cháu cưới và sống trên ngôi nhà ông bà để lại trong xóm. Nhà cũ đứng tên ông bà nội cháu nhưng ông qua đời đã lâu. khi bố mẹ cháu cưới nhau thì bà về ở riêng với cố là bà thân sinh ra bà nội.  Đến năm 2003, bố mẹ cháu mua nhà mặt đường ở riêng. Bà về bán nhà được 10.000.000 đồng.bố cháu là người nhận tiền. Sau đó, bố chau đưa số tiền đó cho chị gái bố cháu giữ. năm 2004 nhà cháu xây mới trên mảnh đất đứng tên bố mẹ cháu. Mâu thuẫn xảy ra khi bố cháu bị tai nạn lao động và qua đời vào năm 2007. Bây giờ, gia đình đường nội cháu đòi tranh chấp quyền thừa kế và chia tài sản.vậy cháu nhờ luật sư trả lời giúp cháu về vấn đề của gia đình cháu. Cháu xin chân thành cảm ơn.....
Do bạn trình bày không rõ về việc gia đình bên nội của bạn tranh chấp với gia đình bạn về tài sản thừa kế cụ thể như thế nào nên tôi không có cơ sở để tư vấn cụ thể. Nhưng đối với mảnh đất hiện tại mà bố mẹ bạn đứng tên là tài sản do bố bạn mua, đó không phải là tài sản thừa kế của ông bà nội bạn vì thế các đồng thừa kế của ông bà nội bạn không có quyền tranh chấp hoặc thừa kế. Đối với căn nhà đứng tên ông bà nội sau đó bố bạn đã bán được 10.000.000 triệu và chuyển cho chị gái của bố bạn, thì nay có tranh chấp các đồng thừa kế sẽ được quyền hưởng phần bằng nhau đối với số tiền 10.000.000 đồng. Cũng lưu ý với bạn là thời hạn khởi kiện thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Do ông bà nội bạn chết không để lại di chúc, nên việc chia thừa kế sẽ thực hiện theo pháp luật. Chào bạn
Kính chào quý luật sư! Em có vài câu hỏi về quyền thừa kế nhà em như sau: Ông bà nội đã mất để lại 1 căn nhà cho 8 người con (trong đó có 1 người con đã mất và có gia đình ở nước ngoài). Căn nhà thì có ba em, bác lớn (đã mất nhưng có vợ con), bác nhỏ và cô lớn em (chưa có chồng) tổng 4 người đứng tên sở hữu trên giấy tờ nhà, cùng có hộ khẩu của căn nhà nói trên. Ngoài ra có còn 2 cô đã có chồng và 1 cô chưa chồng : - 1 cô (gọi là A) có chồng vẫn còn hộ khẩu ở căn nhà của ông nội. - 1 cô (gọi là B)  có chồng đã cắt hộ khẩu và sống ở nhà chồng - 1 cô ( gọi là C ) chưa chồng có tên trong hộ khẩu và đang sống ở nhà của ông bà nội. Vậy với trường hợp trên thì nếu nhà ông bà nội bán thì sẽ được chia 4 phần của những người con có tên trong giấy sở hữu nhà đất hay là chia theo những ai có tên trong hộ khẩu hoặc là chia đều cho 8 người con dù có tên hay không tên và có hộ khẩu hay đã cắt hộ khẩu. Với trường hợp ông bà nội không có để lại di chúc + Giả sử cô B đòi chia 1 phần thì có đúng pháp luật không? + Và cô A và cô C không có tên trong giấy tờ sở hữu nhà đất, vậy có được chia 1 phần không? Em xin cám ơn luật sư.
Trường hợp đất của căn nhà được cấp cho hộ gia đình thì có thể phải chia khác đi, tôi chỉ nêu lên trường hợp chung mà thôi. Khi đó, những người con của ông bà nội thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Dù một số người đã mất, song họ có con nên con của họ được hưởng phần di sản mà đáng ra bố mẹ họ được hưởng (thừa kế thế vị theo Điều 677 BLDS). Chia thừa kế theo pháp luật thì di sản được chia đều cho tất cả đồng thừa kế này. Tuy nhiên, vì căn nhà hiện nay đứng tên 4 người nên họ đang là những đồng sở hữu duy nhất được pháp luật công nhận và mỗi người trong số họ được hưởng 1/4 khối tài sản này, trừ khi có thỏa thuận khác. Do đó, các đồng thừa kế khác muốn chia phần của mình thì phải thương lượng với họ hoặc nhờ tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
Kính gửi Luật sư! Kính nhờ Luật sư tư vấn trường hợp như sau. Giám đốc đại diện công ty Cổ phần cũng là Chủ tịch Hội đồng quản trị với vốn góp 91%. Hai thành viên còn lại đứng tên trong ĐKKD là 2 con trai của vị giám đốc này với tổng vốn góp là 9%. (tỷ lệ vốn góp của từng người con bằng nhau). Hiện nay, vị chủ tịch HĐQT chết đột ngột không để lại di chúc. Vậy về mặt luật pháp, công ty phải tiến hành các thủ tục gì để điều hành tiếp hoạt động công ty. Hai người con có được đứng ra trực tiếp điều hành và ai sẽ là người thay thế đứng ra đại diện công ty?  Vị giám đốc này có 3 người con trai: Hai người con đứng tên trong ĐKKD gồm 1 người 23 tuổi và 1 người 21 tuổi.  Người con trai còn lại không đứng tên trong ĐKKD mới 14 tuổi. Tài sản công ty sẽ được chia như thế nào cho 3 người con trên theo đúng Luật thừa kế? Trân trọng cảm ơn Luật sư!
Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định cổ phần thuộc sở hữu của cổ đông sẽ được để lại cho những hàng thừa kế sau: Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; Trong trường hợp này những người đồng thừa kế có thể ủy quyền cho một người đứng tên.
Một người bạn của em có một gia đình không được yên ấm, cha của bạn em hay uống rượu và mắng mỏ vợ con. Sau đó, cách đây 3 năm, người cha bị tai biến và bị liệt một thời gian dài. Bạn của em vẫn còn mẹ và một người anh trai nay đã 27 tuổi, hai người họ vì bất mãn cha của bạn em nên không ai nuôi dưỡng ông, thậm chí còn xua đuổi ông. Vì thế bạn em, vì thương cha, nên đã tự mình nuôi người cha mình suốt 3 năm nay. Tuy biết được vợ và con mình đối xử với mình thậm tệ, nhưng người cha vẫn để lại di chúc cho cả ba người, trong đó có cả bạn em với tài sản là mảnh đất thổ cư có diện tích 4000 mét vuông. Năm 2011, mẹ của bạn em ngoại tình và bị cha của bạn phát hiện, khi đó người cha đã khỏi hẵn bệnh, và cha của bạn đã đánh mẹ bạn, bạn em đã can ngăn nhưng cha bạn đã xua đuổi bạn đi, vì bất mãn nên bạn của em bỏ đi không muốn quay về nữa. Sau này mới hay tin là, cha của bạn em đã bị tình địch của người vợ đâm chết. Vậy, sau này bạn em có bị trút quyền thừa kế hay không? Còn mẹ và người anh của bạn em thì sao?
Căn cứ nội dung bạn trình bày thì bạn của bạn vì bất suy nghĩ tiêu cực và có phần bồng bột nên đã bỏ nhà ra đi, tuy nhiên hành vi của người đó không thuộc trường hợp bị trất quyền thừa kế tài sản do cha người đó để lại. Do cha của người bạn đó chết không để lại di chúc nên theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 tại Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật 1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. 2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. 3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Như vậy bạn của bạn có quyền được chia thừa kế bằng phần tương đương với mẹ và các anh em trong gia đình.
Bố mẹ tôi là cụ Phạm Văn Th và Nguyễn Thị X có với nhau 04 người con gồm: ông Phạm Văn K, Phạm Văn M, Phạm Văn T và tôi Phạm Thị V. Mẹ tôi mất năm 1996. Anh trai tôi, Phạm Văn M mất ngày 20/02/2005. Anh tôi hiện có hai người con là cháu Phạm Văn H và Phạm Văn N. Ngày 25/3/2011 bổ tôi ốm chết. Cả hai bố mẹ tôi trước khi mất đều không để lại di chúc. Tài sản của bố mẹ tôi gồm 01 ngôi nhà xây 3 gian ở quê và 1.000m2 đất ở. Vừa qua tôi về quê cúng 49 ngày cho bố tôi, hai cháu Phạm Văn Hanh và Phạm Văn Hàn đề nghị được nhận 250m2 đất làm nhà ở nhưng anh em chúng tôi không đồng ý với lý do cháu không được nhận thừa kế của ông bà. Anh em chúng tôi muốn biết hai cháu Hanh và Hàn con anh trai tôi có được nhận di sản thừa kế của bố mẹ tôi để lại không?
Mẹ bà là cụ Nguyễn Thị X mất năm 1996 nên thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế đến nay đã hết. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì di sản của cụ Xuân để lại sẽ trở thành tài sản chung của các đồng thừa kế để giải quyết theo quy định pháp luật về chia tài sản chung khi các đồng thừa kế có văn bản xác nhận không có tranh chấp về hàng thừa kế và thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia. Nếu không bảo đảm 2 điều kiện này thì phần di sản do cụ Xuân để lại sẽ được giao cho người đang quản lý, sử dụng tiếp tục quản lý, sử dụng. Di sản thừa kế của cụ H là giá trị của 1/2 ngôi nhà và 500m2 đất sẽ được chia theo pháp luật. Các con của cụ là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Do ông Phạm Văn M chết trước cụ Hương nên hai cháu H và N sẽ được hưởng thừa kế thế vị bằng một suất mà bố các cháu nếu còn sống được hưởng di sản của cụ H (Điều 677 BLDS 2005)./.
Cha và mẹ tôi có một căn nhà trị giá 3 tỷ đồng, ngoài ra còn ông còn có số tài sản riêng là 800 triệu. Năm 2009 cha tôi qua đời, có lập di chúc để phân chia tài sản thừa kế. Điều đáng nói là trong di chúc cha tôi lại phân chia tài sản cho một thai nhi (là con của cha tôi với một người đàn bà khác, không phải là mẹ tôi). Xin hỏi cha tôi lập di chúc như vậy có được pháp luật cho phép không? Mẹ tôi có quyền hủy bỏ di chúc không?
Theo qui định tại Điều 635 Bộ luật Dân sự 2005: "Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế, hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết....". Như vậy, việc cha bạn lập di chúc để lại tài sản cho thai nhi là phù hợp với qui định của pháp luật. Tuy nhiên, tại thời điểm mở thừa kế thai nhi này phải còn sống thì mới được hưởng thừa kế theo di chúc của cha bạn. Cha bạn có quyền định đoạt tài sản riêng của mình trong di chúc nhưng không có quyền định đoạt toàn bộ tài sản chung của cha, mẹ bạn là căn nhà trị giá 3 tỷ đồng. Cha bạn chỉ có thể định đoạt ½ giá trị của căn nhà đó. Còn mẹ bạn không có quyền hủy bỏ di chúc của cha bạn.
Xin chào luật sư, em có thắc mắc như sau: Ông nội em có 7 người con, 4 trai 3 gái. Hiện tại ông nội em còn sống, và đã viết di chúc để lại đất chia cho 4 người con trai, di chúc này được đưa lên chính quyền xã thì được hồi âm là phải có chữ ký của tất cả các con thì mới có hiệu lực ngay. Hiện tại đã có 6 người ký vào bản di chúc, chỉ còn 1  bác trai cả là chưa đồng ý và chưa ký. Cho em hỏi: Những người được thừa kế trong di chúc muốn sử dụng đất ở thời điểm hiện tại (bán, thế chấp ...) thì cần có điều kiện gì? Khi ông mất mà bác cả chưa ký thì sẽ chia quyền thừa kế như thế nào?
Điều 646 Bộ luật dân sự năm 2005 cũng đã quy định: “ Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết ”. Nếu muốn sử dụng đất tại thời điểm hiện tại thì ông nội bạn làm hợp đồng tặng cho thì mới có thể làm được. bạn không trình bày bà nội bạn mất khi nào, tài sản có liên quan đến bà nội hay không. Do đó có thể phát sinh hai trường hợp: 1. Nếu tài sản là tài sản chung của ông, bà nội bạn, và bà nội bạn đã mất: thì khối tái sản trên sẽ là của ông nội bạn một nửa, và một nửa còn lại là di sản do bà nội để lại, nếu bà nội không để lại di chúc thì phần di sản của bà nội bạn sẽ được chia đều cho các đồng thừa kế thuộc hàng thứ nhất, tức là 7 người con và ông nội bạn mỗi người một phần bằng nhau. Do vậy nên muốn định đoạt khối tài sản này thì phải có sự đồng ý của tất cả các đồng thừa kế và ông nội bạn. 2. Nếu tài sản trên là tài sản riêng của ông nội bạn, thì nếu muốn định đoạt thì ông nội bạn chỉ cần làm hợp đồng tặng cho khối tài sản này theo quy định của pháp luật. Nếu ông nội bạn lập di chúc thì chỉ sau khi ông nội bạn mất, di chúc mới có hiệu lực. Và khi này không cần phải có ý kiến của các người con nếu di chúc của ông nội bạn được lập hợp pháp. Thân chào bạn.
Kính thưa luật sư năm nay mẹ tôi đã được hơn 100 tuổi nhưng còn rất minh mẫn, bố tôi chẳng may mất sớm, gia đình có 4 người con: bà A  ở Đồng Nai, bà B ở Phú Yên còn tôi và ông C  hiện ở chung 1 thửa đất có diện tích 165,28 mét vuông đứng tên mẹ tôi, (Ở mảnh đất nói trên hiện có 2 căn nhà: 1 căn anh tôi là ông C đang sống, 1 căn tôi và mẹ tôi sống).  Từ khi bố mất không ai chăm sóc mẹ mọi trách nhiệm đều đùn đẩy cho tôi và từ trước tới giờ anh, chị, em trong nhà cũng không ai hỗ trợ tôi nuôi mẹ kể cả người anh ở cạnh nhà rồi bây giờ đùng một cái thấy mẹ đã già yếu thì kéo về đòi chia tài sản. Mẹ tôi không đồng ý và muốn cho tôi tất cả phần đất nói trên. Vậy kính hỏi luật sư mẹ tôi đã lớn tuổi như vậy thì lời nói có còn hiệu lực không? Và mẹ tôi chia như vậy có đúng không? Người anh ở chung thửa đất phải giải quyết như thế nào nếu như mẹ tôi quyết định cho tôi tất cả? Kính mong luật sư giúp cho gia đình tôi gỡ bỏ được khuất mắc. Xin chân thành cám ơn luật sư.
Về mảnh đất mang tên mẹ bác, do bác không nói rõ hình thành từ thời điểm trước khi bố bác mất hay sau khi bố bác mất nên rất kho xác định đó là tài sản chung hay tài sản riêng và như vậy quyền định đoạt cũng khó xác định chính xác. Tuy nhiên, căn cứ theo nội dung trình bày của bác, chúng tôi giả sử các trường hợp sau: - Trường hợp 1: Tài sản đứng tên mẹ bác nhưng do được hình thành trước khi bố bác mất và đó là tài sản chung của 2 vợ chồng thì: Về nguyên tắc mẹ bác có 1/2 quyền sử dụng đất và 1/2 quyền sử dụng đất thuộc về tài sản của bố bác. Do ông cụ mất không để lại di chúc nên di sản được chia cho các đồng thừa kế còn lại, tức là chia cho 5 phần. Như vậy, mẹ các có 6/10 diện tích đất (khoảng 99m2). Mẹ bác có thể cho bác 99m2 này, bác có 1 phần diện tích do được hưởng từ di sản của bố bác tương ứng 16.5m2, như vậy cả phần của mẹ cho thì bác có khoảng 115,7 m2. - Trường hợp 2 : Tài sản được xác định là tài sản riêng của mẹ bác thì mẹ bác có toàn quyền định đoạt khối tài sản này, mẹ các có thể tặng cho hoặc thừa kế lại cho bác toàn bộ diện tích đất nói trên. Bác có thể làm hợp đồng tặng cho có công chứng và sau đó làm thủ tục sang tên cho bác được.
Trong quá trình Tòa án thụ lý đơn ly hôn thì chồng tôi mất do bị tai nạn (không để lại di chúc). Trước khi mất, anh ấy đã có vợ sắp cưới, chỉ đợi ly hôn xong là họ tiến hành kết hôn Trong trường hợp này tôi còn được hưởng thừa kế từ anh ấy không?
Chồng chị chết không để lại di chúc nên di sản của anh ấy sẽ được chia theo pháp luật. Về mặt pháp lý, hôn nhân giữa chị và chồng cũ vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng. Quan hệ này chỉ chấm dứt khi có bản án hoặc quyết định cho ly hôn có hiệu lực của tòa án cấp có thẩm quyền. Chị và anh ấy mới chỉ đang trong giai đoạn Tòa án thụ lý đơn ly hôn, chứ chưa chấm dứt hôn nhân nên về quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản chưa được xem xét đến. Khoản 2 Điều 680 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng văn bản hoặc bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản”. Mặt khác, tại khoản 1 Điều 676 BLDS 2005 thì chị vẫn thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản. Căn cứ vào quy đinh trên thì chị vẫn là vợ hợp pháp của người để lại di sản, còn cô gái kia chỉ mang danh nghĩa là vợ sắp cưới của anh ấy chứ chưa được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp. Do đó, chị có quyền được hưởng thừa kế từ khối tài sản của anh ấy để lại.
Bố tôi mất năm 2005. Trước khi mất bố đã lập di chúc và để lại tài sản cho hai chị em tôi (em trai được hai phần còn tôi được một phần). Bố tôi mất thì em trai cũng bị công an bắt và bị kết án tù vì chính nó đã giết ông ấy. Do cần tiền mua thuốc nên nó cùng đồng bọn đã lập mưu giết bố để lấy tiền tiêu xài. Trường hợp của em tôi có còn được thừa kế như trong di chúc nữa không?
Theo quy định của pháp luật, hành vi con giết bố là một trong các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hành vi trên của em trai bạn giết người nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản để lấy tiền mua thuốc và tiêu xài được xem là giết người với động cơ đê hèn. Nạn nhân không phải ai khác mà chính là cha đẻ của thủ phạm. Điều này trái với pháp luật, truyền thống văn hóa và đạo đức của người Việt Nam. Bố bạn trước khi chết có để lại di chúc, trong đó em trai được hưởng hai phần, còn bạn được một phần. Sự phân chia này hoàn toàn phụ thuộc vào ý nguyện của người để lại tài sản. Nhưng không phải mọi trường hợp người có tên trong di chúc cũng được hưởng tài sản của người chết để lại. Tại Khoản 1 Điều 643 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: Những người sau đây không được quyền hưởng di sản: - Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng, danh dự, nhân phẩm của người khác; - Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; - Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; - Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ ý chí của người để lại di sản. Em trai giết bố để chiếm đoạt tài sản có thể bị kết án vào tội cố ý giết người. Hành vi của em trai bạn được xem là một trong các căn cứ để tước quyền thừa kế, mặc dù người này có tên trong di chúc của người để lại di sản. Tại Khoản 2 Điều 634 BLDS 2005 quy định: “những người quy định tại Khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản thừa kế”. Theo như lời bạn trình bày, bố bạn đã lập di chúc trước khi bị giết. Hành vi lên kế hoạch giết người của em trai bạn và đồng bọn, bố bạn hoàn toàn không hề hay biết. Ông ấy bị giết một cách bất ngờ và đột ngột nên không thể nào quyết định được việc cho em bạn tiếp tục hưởng thừa kế như bản di chúc đã lập. Em trai bạn là người có quyền được hưởng thừa kế nhưng chính hành vi xâm phạm tới tính mạng của người để lại di sản đã làm cho anh ta bị tước quyền thừa kế. Do đó, em trai bạn sẽ không có quyền hưởng di sản thừa kế từ người đã mất mặc dù đã được chia phần trong di chúc.
Cha mẹ chúng tôi đã qua đời được 15 năm (không để lại di chúc) nhưng do làm ăn xa nên Tết này, 4 anh em mới họp lại được để phân chia di sản thừa kế. Giả sử chúng tôi có vướng mắc bây giờ thì có khởi kiện ra tòa được không?
Theo Điều 645 Bộ luật dân sự quy định: Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Như vậy, về nguyên tắc, nếu cha mẹ bạn đều mất đã trên 10 năm thì thời hạn khởi kiện về thừa kế đã hết. Tuy nhiên,Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình cũng có quy định một số trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế như sau: Trường hợp trong thời hạn 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn 10 năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau: - Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thỏa thuận của họ. - Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung. Theo hướng dẫn nói trên, nếu anh em bạn không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do cha mẹ để lại chưa chia, chỉ không thỏa thuận được về phần mỗi người được hưởng thì không thuộc trường hợp bị coi là đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế, tòa án sẽ thụ lý vụ kiện và áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.
Quyền thừa kế là gì?
Quyền thừa kế là Quyền để lại tài sản của mình cho người khác sau khi chết, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Bao gồm quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, để lại tài sản cho người thừa kế theo pháp luật và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Nhà tôi ở tỉnh lẻ, có 4 anh chị em, 1 người đi nước ngoài XKLĐ, 2 người có hộ khẩu ở tp HCM. Tôi với người anh đi XKLĐ còn trong hộ khẩu nhà đang ở tỉnh.  Nay tôi tính lên Tp HCM làm và nhập hộ khẩu trên này để tiện xin việc làm. Tôi muốn hỏi luật sư như vậy sau này nếu có thừa kế tôi có thiệt thòi gì so với người có hộ khẩu tại nơi tài sản thừa kế không? Cảm ơn
Về quyền thừa kế của cá nhân không phụ thuộc vào nơi người đó cư trú, sinh sống vì đây là quan hệ phát sinh từ yếu tố quan hệ huyết thống, cha - con, mẹ - con... bạn có thể cư trú ở địa phương nào cũng được chỉ cần bạn chứng minh được minh là người có quyền thừa kế di sản của người chết để lại. Về hàng thừa kế bạn có thể tham khảo quy định tại Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Vợ chồng bác tôi có 1 mảnh đất, bác trai mất đột ngột không có di chúc. 2 bác có 2 người con chung. Bác trai còn mẹ (bố mất rồi). Tôi muốn hỏi tài sản sẽ được chia như thế nào sau khi mẹ bác trai mất? Nếu muốn làm thủ tục để mẹ bác trai từ bỏ quyền thừa kế thì phải làm những gì?
Vấn đề của bạn, chúng tôi trả lời như sau: - Thứ nhất, Do bác trai bạn mất không để lại di chúc. Di sản của bác trai bạn sẽ được chia theo pháp luật. Theo đó những người được thuộc diện thừa kế sẽ là: vợ, mẹ và 2 người con của bác trai bạn. Sau khi mẹ bác trai bạn mất, di sản thừa kế của bà (kể cả phần di sản được hưởng từ bác trai bạn) sẽ được chia theo di chúc, nếu mẹ bác trai bạn có để lại di chúc. Nếu mẹ bác trai bạn chết mà không để lại di chúc, di sản của bà sẽ được chia theo pháp luật. Những người được hưởng thừa kế theo pháp luật được quy định tại Điều 676 BLDS. - Thứ hai, việc từ bỏ (từ chối) nhận di sản thừa kế là quyền của người được hưởng di sản thừa kế, các cá nhân, tổ chức khác không được ép buộc. Việc từ chối quyền thừa kế quy định tại Điều 642 BLDS: Điều 642. Từ chối nhận di sản 1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. 2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản. 3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế
Mẹ chồng tôi có cho vợ chồng tôi 1 miếng đất và đã sang tên bìa đỏ đứng tên chồng tôi và bà không còn liên quan gì đến miếng đất đó nữa. Nhưng 2 năm sau thì chồng tôi mất, anh mất đột ngột lên không để lại được di trúc. Hai năm sau tôi mang bìa đỏ ra xã để chuyển tên người sử dụng miếng đất đó sang tôi, xa yêu cầu phải mời mẹ chồng tôi nên ký. Nhưng bà không ký và nói bà có phần trong miếng đất đó, phải chia cho bà thì bà mới ký hoặc phải sang tên toàn bộ cho con trai tôi thì bà mới ký. Vậy xin hoi luật sư mẹ chồng tôi có phần trong miếng đất này hay không? nếu như không thì tôi có bắt buộc phải có chữ ký của bà để chuyền quyền sử dụng đất hay không?
1/ Toàn bộ tài sản của chồng bạn sẽ được chia theo pháp luật (theo Điều 675 Bộ luật Dân sự) nghĩa là chia đều cho các đồng thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm cha mẹ, vợ, các con của chồng bạn. 2/ Nếu bạn chứng minh được miếng đất là cho cả 2 vợ chồng thì bạn và chồng bạn mỗi người có 1/2 miếng đất. Phần 1/2 của chồng bạn là di sản và được chia đều như trên. Như vậy, trong cả 2 trường hợp, mẹ chồng bạn đều có quyền thừa kế và vì chưa chia di sản nên trường hợp nào thì các giao dịch liên quan đến miếng đất cũng đều phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế, trong đó có mẹ chồng bạn.
Sau khi bố mẹ em ly dị thi me em có mua cho em mot ngôi nha, nhưng vì lúc đó em con nhỏ lên chưa đủ tuổi để đứng tên lên bố em là người đứng tên ngôi nhà đó.Bây giờ em đả đủ tuổi nhưng bố em lại có lấy một người vợ khac và có thêm một em trai nữa. vậy xin hoi luật sư về quyền thừa kế ngôi nhà sẽ như nào ạ?
Theo như bạn nói thì căn nhà là do mẹ bạn mua cho bạn sau khi ly hôn bố bạn nhưng vi do bạn chưa đủ tuổi đứng tên tài sản nên lại nhờ bố bạn đứng tên thì xem như là tài sản riêng của bạn do mẹ bạn mua tặng cho. Tuy nhiên, về mặt pháp lý thì căn nhà đứng tên của bố bạn nên bạn và mẹ bạn có giấy tờ gì chứng minh là nhờ bố đứng tên dùm hay không? vì nếu bố bạn ko xác nhận là mình chỉ đứng tên dùm mà nói là nhà của mình thì phải có chứng cứ chứng minh việc đứng tên dùm. Trong trường hợp ko có chứng cứ chứng minh đứng tên dùm và bố bạn cũng ko thừa nhận thì xem như là nhà của bố và nếu sau này bố mất ko để lại di chúc thì bạn chỉ hưởng được một phần di sản với tư cách là một trong những đồng thừa kế của bố thôi.
Gia đình tôi có 5 anh chị em (3 trai, 2 gái)đều đã lập gia đình .Bố chồng tôi mất sớm. Tôi là vợ của người  trai thứ 3 trong gia đình và hiện giờ đang sống cùng mẹ chồng. Bố chồng tôi được thừa kế 1 mảnh đất ở quê nhà rộng hơn 400m2. Mẹ chồng tôi muốn xây 100m2 để làm nhà thờ và chuyển nhượng cho con trai trưởng .Vì không có tiền xây dựng nên bà quyết định bán cho tôi 1 phần .  Phần còn lại để bà bán mà không chia cho các con trong nhà. Tôi muốn được giải đáp thắc mắc là mẹ chồng tôi có được phép làm như vậy không ? Nếu mua bán thì phải làm những thủ tục pháp lý gì ?
Nếu thửa đất đó là tài sản riêng của bố chồng bạn có được do thừa kế hoặc là tài sản chung của bố mẹ chồng bạn thì nay bố chồng bạn qua đời, không để lại di chúc nên khối tài sản đó sẽ thuộc về những người thừa kế của bố chồng bạn là mẹ chồng và 5 anh, chị em. 6 người này có quyền như nhau đối với phần di sản do bố chồng bạn để lại. Nếu muốn thực hiện ý nguyện như của mẹ chồng bạn thì phải thực hiện thủ tục khai nhận di sản thừa kế đối với bố chồng bạn để cho mình mẹ chồng bạn được cấp GCN QSD đất đứng tên toàn bộ thửa đất đó. Sau đó mẹ chồng bạn thực hiện thủ tục chuyển nhượng 1 phần thửa đất đó để tách một phần thửa đất cho vợ chồng bạn. Nếu mẹ bạn chưa đứng tên một mình toàn bộ thửa đất đó thì mẹ bạn chưa có toàn quyền quyết định về việc chuyển nhượng cho vợ chồng bạn.
Ông bà nội tôi (đã mất năm 1980) sống ở Hà Tiên, có đất nhà và đất ruộng 3ha được đăng ký đứng tên ông nội trước 1975. Ông bà nội có 3 người con là 2 cô và ba tôi. Cô Hai (đã mất) sống ở Bình Dương, có 1 con trai. Khi còn sống, ông nội đã chia riêng 1 phần đất cho cô Hai, phần còn lại thì ông nội có nói miệng sẽ chia cho cô Ba và ba tôi mỗi người 1 nửa. Con trai cô Hai và 1 số người họ hàng ở quê có thể làm chứng cho việc này. Cô Ba sống ở nhà ông bà nội, có 1 con trai tên Nam. Sau khi cô ba mất năm 2000, anh Nam đã tự ý sang tên hết đất đai của ông nội thành tên của anh Nam mà không hề báo cho ba tôi biết. Ba tôi, sống ở TPHCM, hiện nay đã 75 tuổi, có được khởi kiện anh Nam để chia phần tài sản của ông nội tôi để lại không? Nếu có thể khởi kiện nhưng tình hình sức khỏe của ba tôi không được tốt thì ba tôi có thể ủy quyền lại cho tôi để khởi kiện anh Nam không? Xin cám ơn đã tư vấn.
Bạn cần phải kiểm tra lại thông tin liệu rằng ông, bà nội bạn có để lại di chúc cho cô ba của bạn về việc được thừa kế toàn bộ diện tích nhà và đất không? Trường hợp ông bà nội bạn có lập di chúc để lại tài sản cho cô ba của bạn thì việc đứng tên người sử dụng đất trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của em bạn là hợp pháp (vì em bạn là người thừa kế duy nhất thuộc hàng thừa kế của cô bạn). Trường hợp mà không có di chúc thì cha bạn vẫn có quyền khởi kiện để đòi lại quyền lợi hợp pháp của mình. Trong trường hợp khởi kiện vì điều kiện sức khỏe ba bạn có thể ủy quyền cho bạn hoặc một người nào đó để tham gia giải quyết vụ việc./.
Năm 2000 ông bà nội tôi có mua một mảnh đất gần 800 met vuông  và trao quyền sử dụng đất cho mẹ tôi. nâm 2010 mẹ tôi qua đời và không để lại di chúc. bô mẹ tôi sinh được 5 người con gồm 3 chị gái,tôi và em gái tôi. hiện nay tôi muốn chuyển quyền sủ dụng đất cho bố tôi, nhưng chị cả của tôi không đông ý. Vậy xin hỏi luật sư về trường hợp như của gia đình tôi giải quyêt như thế nào?
Thứ nhất gia đình phải khai di sản thừa kế tài sản mẹ bạn để lại được thừa hưởng theo luật. Di sản riêng của mẹ chia đều cho 6 người gồm bố và 5 người con , mỗi ngưởi hưởng 1/6 giá trị tài sản do mẹ bạn để lại. Phần của bạn có thể ủy quyền cho bố quản lý hoặc tặng cho bố tùy bạn quyết định các người con khác không can thiêp được.
Cha mất không để lại di chúc . tài sản có căn nhà đã thế chấp vay ngân hàng . nhà có 4 người con và mẹ . nay đến thời gian đáo hạn . bên ngân hàng và mẹ không bàn bạc trước với em mà kêu lên ký giấy ủy quyền cho mẹ (và mẹ sẽ ủy quyền lại cho 1 người làm dich vụ đáo hạn theo em dc biết) vậy cho em hỏi là khi em ký giấy ủy quyền cho mẹ (để làm thủ tục đáo hạn ngân hàng) thì phần thừa kế di sản của em có còn hay mất ? và người được mẹ em ủy quyền có cách nào mà trở mặt để bán và chiếm đoạt căn nhà hay không .
1. Theo thông tin bạn nêu thì nhà đất là tài sản hợp pháp của bố mẹ bạn, đang thế chấp tại ngân hàng. Bố bạn đã qua đời nên mẹ bạn và các anh chị em bạn là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, được thừa kế đối với phần di sản do bố bạn để lại đồng thời cũng có nghĩa vụ thực hiện thay bố bạn các nghĩa vụ đối với ngân hàng theo hợp đồng đã ký kết. 2. Nếu bạn ủy quyền cho người khác thay bạn thực hiện thay bạn các công việc với ngân hàng thì người đó chỉ được thực hiện các công việc ghi trong nội dung giấy ủy quyền của bạn. Nếu bạn chỉ ủy quyền để thực hiện thủ tục vay vốn thì họ chỉ được ký hợp đồng vay vốn mà không được ký hợp đồng chuyển nhượng. Tuy nhiên, nếu bố mẹ bạn không trả được nợ cho ngân hàng thì ngân hàng cũng có thể làm thủ tục phát mại ngôi nhả đó, khi đó không còn tài sản để bạn hưởng thừa kế.
Bố mẹ tôi sinh được mười người con 5 trai va 5 gái, tôi là con trai út trong gia đình, tát cả đều đã lập gia đình trước khi bố mẹ tôi qua đời duy chỉ còn mình tôi, và trước khi mất bố mẹ tôi có chia có chia co bốn anh trai tôi mỗi người một mảnh đất, còn các chị gài thì không có, khi bố mẹ tôi còn sống, do là con trai út lên tôi sống cùng với bố mẹ lên bố mẹ có nói để lại cho tôi mảnh đất mà tôi đang sống cùng bố mẹ, khi bố mẹ tôi qua đời tôi có đến ở với anh hai, trong thời gian đó anh ba đã bán miếng đất mà bố mẹ tôi đã chia cho anh đấy và đến sống tại miếng đất mà bố mẹ nói cho tôi, do trước khi bố mẹ tôi mất không để lại di chúc rằng miếng đất đó để cho tôi ma chỉ nói truyền miệng, thời gian trôi qua đã 18 năm anh trai tôi đã tự ý sang tên sổ đỏ sang tên anh đấy, trước kia là tên bố mẹ tôi. Bây giờ do không có đất ở lên tôi có nói anh trả lại đất cho tôi, trong cuộc họp gia đình chín anh chị em đếu nói là miếng đất đó là bố mẹ để lại cho tôi, còn anh trai tôi nói là hơn chục năm nay miếng đất đó do không có tranh chấp lên bây giờ thuộc quyền sử dụng của anh đấy và có ý định không trả vậy có đúng không, mong luật sư tư vấn giúp tôi. Xin chân thành cảm ơn.
Nếu miếng đất đó bố mẹ bạn đã đồng ý cho bạn lúc con sống và có tất cả anh chị em cũng đông thuận làm chứng thì đó cũng là cơ sở để bảo vệ quyền lơi cho bạn dù việc cho đó ko có giấy tờ. Do vậy, bạn hãy cùng các thanh viên gia đình đề nghị người anh trả lại đất cho bạn. Trường hợp ko trả thì khởi kiện để tòa án giải quyết. Trường hợp nếu việ cho đó không có bằng chứng thì cũng sẽ là đất của cha mẹ bạn để lại và nếu ko có di chúc thì chia đều cho các anh chị em bạn theo pháp luật nên việc người anh chiếm toàn bộ miếng đất như thế cũng ko đúng luật và nên yêu cầu tòa án giải quyết.
Tôi có vấn đề này mong luật sư tư vấn giúp: Nhà tôi được cấp GCN QSD đất và tên người đại diện (cho các đồng thừa kế của ba tôi) là mẹ tôi.Vậy cho tôi hỏi bây giờ nhà tôi bán đi thì chỉ cần mẹ tôi đứng ra đại diện ký tên hay tất cả các đồng thừa kế cùng ký tên mới được. Và thủ tục như thế nào nhờ luật sư giúp đỡ, cám ơn.
- Tài sản chưa chia thì khi bán phải có sự đồng ý của tất cả chủ sở hữu (là các đồng thừa kế) do đó một mình mẹ bạn ký tên chỉ có hiệu lực khi những người khác đều ủy quyền cho mẹ bạn. - Người mua bán ra tổ chức công chứng để công chứng hợp đồng, trên cơ sở đó làm thủ tục chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận giữa bên mua với bên bán cũng như quy định pháp luật.
Xin chào luật sư Hiền 2 vợ chồng tôi được cha mẹ uỷ quyền cho sử dụng chung 1 căn nhà, nhưng ghi chú trên giấy tờ là chi được quyền sử dụng, không được quyền bán nếu không có sự đồng ý của cha mẹ tôi. Hiện nay, cha mẹ tôi đã mất, anh chi em tôi đều ở nước ngoài, nếu tối muốn bán căn nhà, thì anh chị em có quyền tranh chấp k? Và tôi nên làm thủ tục thế nào để bán nhà nếu cha mẹ mất?
Cha, mẹ chồng bạn chỉ ủy quyền cho vợ chồng bạn sử dụng, chứ không phải tặng cho hay chuyển nhượng tài sản. Vì vậy, đây là di sản thừa kế của cha, mẹ chồng bạn. Nếu cha, mẹ chồng bạn mất mà không để lại di chúc thì di sản này sẽ được chia cho hàng thừa kế thứ 1 gồm: cha, mẹ (nếu còn sống vào thời điểm người để lại di sản chết), các con. Di sản chia đều cho các đồng thừa kế. Chồng bạn chỉ là 1 trong các đồng thừa kế mà thôi nên không thể chuyển nhượng được.
Tôi là con của vợ trước của ba tôi. Ba tôi đã kết hôn với 1 người khác và có 1 người con chung với người đó. Chủ sở hữu quyền nhà là vợ sau của ba tôi đứng tên, vậy nếu ba tôi mất đột ngột thì tài sản đó sẽ được chia như thế nào, tôi có được quyền sở hữu một phần trong số tài sản đó không?
Trường hợp ngôi nhà đó là tài sản chung giữa ba bạn và người vợ thứ hai ( là tài sản riêng của một trong hai bên nhưng thỏa thuận là tài sản chung hoặc đó là tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân) thì theo quy định của pháp luật bạn vẫn có quyền hưởng di sản. Việc chia di sản , Tòa căn cứ vào nguyện vọng, điều kiện hiện tại của các bên, trường hợp không chia được thì bên còn lại có quyền nhận phần giá trị tương đương với phần được hưởng).
Thưa Luật sư. Trường hợp của tôi như sau: Năm 1956 khi sinh tôi ra, do hoàn cảnh khó khăn, mẹ ruột tôi giao tôi cho bà A nuôi dưỡng và nhận làm con vì bà A không có chồng con. Do không hiểu biết pháp luật nên bà A không làm thủ tục nhận con nuôi, nay bà A mất, tôi có được hưởng thừa kế tài sản để lại của bà A không? Xin Luật sư tư vấn giúp thủ tục. Xin cám ơn.
Trường hợp như bạn trình bày thì đúng là con nuôi, đúng là có quan hệ nuôi dưỡng, tuy nhiên pháp luật lại quy định rất rõ là phải là con nuôi và chứng minh việc này. Nếu ở hàng thừa kế thứ nhất mà không còn ai, bạn có thể làm đơn để ubnd xã, phường nơi cư trú xác nhận bạn có quan hệ nuôi dưỡng thì có thể sẽ được xác định là hàng thừa kế thứ nhất, vì bản chất là đúng như con nuôi, có quan hệ nuôi dưỡng.
Tôi muốn hỏi. Bố tôi mới mất, hiện tại chỉ có mình tôi và mẹ. Ông bà nội ngoại của tôi đều đã mất.Trước khi bố tôi mất có một số BĐS ( nhà ở do ông bà để lại và 2 thửa đất) do bố và mẹ tôi đứng tên. Khi bố tôi mất ko để lại di chúc. Tôi muốn hỏi là tôi có quyền gì đối với số BĐS này không ạ. Do mẹ tôi có ý định bán toàn bộ số BĐS này để chuyển về chỗ khác ở nhưng tôi không muốn đi. Mẹ tôi có nói rằng tất cả là của mẹ tôi và tôi không có quyền gì cả. Vì muốn ở lại và giữ lại ngôi nhà hiện đang ở nên tôi muốn hỏi tôi có quyền gì đối với số BĐS này không. Mong được trả lời sớm
Theo như bạn nói, tài sản trên do mẹ và bố bạn đứng tên, nghĩa là tài sản trên là tài sản chung của bố mẹ bạn. Như vậy theo luật 1/2 là tài sản của bố bạn, bố bạn chết không để lại di chúc thì tài sản trên sẽ chia đều cho các đồng thừa kế đó là mẹ bạn và bạn, tức bạn sẽ được hưởng 1/4 giá trì tài sản nói trên
Xin chào luật sư! tôi có một số vướng mắc xin luật sư giúp đỡ!    Vấn đề như sau:        Từ năm 2005 gia đình tôi có bán một mảnh đất với giá 350.000.000đ, năm đó cùng với gia đình tôi cũng có nhiều hộ dân bán đất cho Ông A (người mua đất) với tổng diện tích trên 10ha, Ông A nói mua đất để làm nhà máy gạch và cam đoan với chính quyền địa phương sẽ tạo công ăn việc làm cho con em địa phương.        Tuy nhiên sau khi đã hoàn thành thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, gia đình tôi và 2 gia đình nữa đã làm giấy cho Ông A vay lại số tiền bán đất trên với thời hạn 03 tháng (từ 01/06/2005 đến 30/08/2005) lãi suất 1% nhưng sau 03 tháng Ông A không trả được tiền và xin ra hạn đến 01/12/2005 sẽ trả cả gốc lẫn lãi nhưng đến nay Ông A vẫn không trả đầy đủ số tiền cho chúng tôi và số đất trên cũng không được Ông A sử dụng đúng mục đích như đã cam đoan.        Thưa luật sư! trong thời gian từ 2005 đến nay Ông A đã thanh toán nhỏ giọt cho gia đình tôi tổng số tiền 116.500.000đ, cũng trong thời gian trên nếu tính tổng số lãi gia đình tôi sẽ được trả là 266.000.000đ trừ đi số tiền Ông A đã thanh toán thì số lãi sẽ là 150.500.000đ + 350.000.000đ(tiền gốc).         Với vấn đề trên tôi có vài câu hỏi kính mong luật sư giúp đỡ! 1/ Giấy vay tiền viết tay từ năm 2005 đến nay còn có giá trị không và có được pháp luật công nhận không? 2/ Vì Ông A không trả tiền theo giấy nợ nên chúng tôi có thể đòi lại đất không?nếu đòi lại đất thì chúng tôi phải làm như thế nào và nếu đòi được đất chúng tôi có phải trả số tiền 116.500.000đ không? 3/ Nếu tiếp tục bán đất cho Ông A gia đình tôi có được thanh toán cả gốc lẫn lãi không?          Rất mong nhận được sự giúp đỡ của luật sư! Trân trọng cảm ơn!
Như bạn kể thì việc chuyển nhượng đất đã hoàn thành và ông A là chủ sở hữu đất. Sau đó ông A vay tiền của bạn với lãi suất 1%/tháng. 1. Giấy vay tiền vẫn có giá trị, và không trái quy định pháp luật, ngoại trừ phần lãi suất cần phải đối chiếu cụ thể với tỷ lệ lãi suất theo quy định vào thời điểm đó của nhà nước để xem có vi phạm gì không. 2. Như trên đã phân tích, việc vay mượn tiền là một mối quan hệ. Bây giờ bạn muốn bán đất nữa thì cũng không liên quan gì đến việc đó, trừ trường hợp 2 bên có thỏa thuận khác.
Xin chào Luật sư. Nhờ luật sư tư vấn giúp tôi trường hợp sau: Bà nội tôi trước khi mất (cách đây 3 năm) có để lại một mảnh đất. Mảnh đất đó bố mẹ tôi đã đóng thuế nhà đất hàng năm (từ năm 1985 đến nay). Vậy xin hỏi việc phân chia mảnh đất đó sẽ như thế nào? Ông bà nội tôi có 6 người con (5 trai, 1 gái). Việc nộp thuế đất hàng năm như vậy thì bố tôi có được quyền lợi gì hơn không? Xin cảm ơn luật sư.
Nếu thửa đất trên vẫn đứng tên ông bà nội bạn thì nó sẽ là di sản của ông bà nội bạn. Trường hợp cả ông bà bạn chết mà không để lại di chúc thì việc chia thừa kế sẽ được chia theo pháp luật và hàng thừa kế thứ nhất của ông bà nội bạn là 6 anh chị em của bố bạn. Khi chia thừa kế tài sản sẽ được chia làm 6 kỷ phần bằng nhau mỗi người được hưởng một kỷ phần. Nếu không thỏa thuận được với nhau về việc chia di sản mà dẫn đến phải thông qua phán quyết của Tòa án thì việc đóng góp công sức và tiền bạc để quản lý, tôn tạo thửa đất của gia đình bạn bao gồm cả việc đóng thuế sử dụng đất sẽ được tòa án xem xét quyết định mức chia kỷ phần.
Những vụ án tranh chấp liên quan đến đất đai, khi nào xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp thừa kế, tranh chấp nhà ở… Thẩm quyền giải quyết và thời hiệu?
Xác định đúng quan hệ pháp luật là để áp dụng đúng pháp luật. Quan hệ pháp luật khác nhau thì pháp luật áp dụng để giải quyết khác nhau, trong đó có vấn đề thời hiệu khởi kiện cũng khác nhau. Ví dụ: cùng là quan hệ được xác lập năm 1995, nếu chỉ là tranh chấp đất thì chỉ áp dụng Luật Đất đai năm 1993, nếu là tranh chấp nhà thì áp dụng Pháp lệnh Nhà ở, nếu là tranh chấp thừa kế thì áp dụng Pháp lệnh Thừa kế. * Về xác định quan hệ pháp luật: Xác định quan hệ pháp luật là căn cứ vào yêu cầu của đương sự (khởi kiện của nguyên đơn , phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có liên quan), cụ thể như sau: - Thứ nhất: Xác định đó chỉ là tranh chấp về quyền sử dụng đất nếu như trên đất đó không có tài sản nào khác, hoặc có tài sản nhưng các bên không có tranh chấp về tài sản đó. - Thứ hai: Xác định là tranh chấp về nhà ở nếu gắn liền với đất đó là nhà ở và có tranh chấp về nhà ở. - Thứ ba: Xác định đó là tranh chấp về thừa kế nếu như việc xác định quyền sử dụng đất đó trên cơ sở pháp luật về thừa kế. - Thứ tư: Xác định là quan hệ hôn nhân và gia đình nếu đất tranh chấp có liên quan đên tài sản chung của vợ chồng . -Thứ năm: Xác định là các quan hệ pháp luật khác khi quyền sử dụng đất gắn với các quan hệ đó, như là quan hệ góp vốn, đầu tư… * Về thẩm quyền: Từ việc xác định đúng quan hệ tranh chấp mới có cơ sở xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Nếu chỉ là tranh chấp đất thì áp dụng quy định tại Điều 136 Luật đất đai 2003 để phân biệt thẩm quyền của Tòa án nhân dân với Ủy ban nhân dân; nếu là tranh chấp thừa kế, tranh chấp tài sản chung của vợ chồng thì thẩm quyền giải quyết là của Tòa án; nếu tranh chấp quan hệ góp vốn thì lại phải xét cụ thể quan hệ tranh chấp để phân biệt thẩm quyền của Tòa án Dân sự hay Tòa án Kinh tế. * Thời hiệu khởi kiện: Cũng trên cơ sở xác định quan hệ pháp luật cụ thể mà xác định thời hiệu khởi kiện. Nguyên tắc là những quan hệ tranh chấp đã được quy định thời hiệu cụ thể thì áp dụng quy định cụ thể chứ không áp dụng quy định chung . Ví dụ: quy định thời hiệu khởi kiện nói chung theo Điều 159 Bộ luật Tố tụng Dân sự là 2 năm kể từ khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm nhưng là khởi kiện về thừa kế thì phải áp dụng quy định tại Điều 645 Bộ luật Dân sự là 10 năm kể từ ngày mở thừa kế; cũng là thừa kế nhưng là thừa kế về nhà ở có thời điểm mở thừa kế trước 01-7-1991 mà có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia thì phải áp dụng quy định tại Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 là thời gian từ 01-7-1996 đến 01-9-2006 không tính vào thời hiệu khởi kiện.
Luật sư có thể trả lời thắc mắc và tư vấn cho em hiểu rõ hơn về vấn đề em nêu ra đây: Đầu năm em  và người yêu em 2 đứa đã tích cóp được ít vốn và cùng nhau mua được một mảnh đất ở khu vực Long Biên, mảnh đất đó đã có sổ đỏ và hiện đang đứng tên người yêu em. Dự định của chúng cháu là đến tháng 8 này sẽ bắt đầu khởi công xây dựng nhà và sang tháng 2 âm năm sau chúng em sẽ tổ chức kết hôn. Vậy em đang mong muốn muốn hỏi luật sư liệu bây giờ chúng em chưa đăng ký kết hôn em có được quyền đứng tên trên sổ đỏ đó không và nếu không được em phải làm thủ tục thế nào để được đứng tên trên sổ đỏ đó là 2 người ạ. Em thì có đang dự định sẽ làm đăng ký kết hôn trước để tiện việc làm nhà và chuyển đổi giấy tờ sớm hơn em sợ sau này sẽ làm thủ tục lằng nhằng hơn. EM làm như thế có được không ạ??? Luật sư cho em lời khuyên. Em xin cảm ơn!
Trước hết về việc sở hữu, sử dụng tài sản pháp luật không cấm, không hạn chế việc hai công dân cùng sở hữu, sử dụng chung một tài sản nên việc em và bạn trai cùng nhau sử dụng thửa đất nêu trên là hoàn toàn có thể thực hiện được. Đây là quy định của Bộ Luật Dân sự năm 2005 về các hình thức sở hữu, sử dụng tài sản. Tuy nhiên hiện tại bạn trai em đang đứng tên trên thửa đất đó nên nếu em muốn đăng ký tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất đó thì buộc em và bạn trai em phải thực hiện việc đính chính thông tin hoặc phải có thủ tục tặng cho, chuyển nhượng.... để hoàn tất hồ sơ khi đó em mới có thể được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng với bạn trai em. Thứ hai nếu các em chưa đăng ký kết hôn thì về nguyên tắc toàn bộ tài sản thửa đất và cả ngôi nhà (nếu xây dựng trước thời kỳ hôn nhân) sẽ được coi là tài sản riêng của bạn trai em. Sau này khi đã đăng ký kết hôn rồi thì hai vợ chồng em muốn thửa đất và ngôi nhà sẽ là tài sản chung của hai vợ chồng thì buộc các em phải thực hiện thủ tục về thỏa thuận tài sản chung, riêng của vợ chồng. Đây là quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Để mọi việc có thể thuận lợi hơn thì các em có thể đăng ký kết hôn trước sau đó thực hiện các kế hoạch của mình.
Chào Luật Sư, Em tên Nguyễn Thành Khang, được sự ủy quyền của Mẹ em, vào năm 2011 em có bán một miếng đất ở Long An do mẹ em đứng tên với giá là 50 tr đồng cho ông A có sổ đỏ. Vào tháng 7/2013 em nhận được điện thoại của ông A thông báo là ông bán miếng đất cho ông B, nhưng kiểm tra là đất đã từng bán cho một người khác, và bảo rằng sổ đỏ là do mẹ em làm cớ mất để có lại dc.  Em đã hỏi mẹ và mẹ bảo là đúng là có làm cớ mất để lấy lại sổ đỏ nhưng mẹ em không bán cho ai hết ( có thể là bị mạo chữ ký mẹ em ). Mẹ em có giấy xác nhận của địa phương cấp lại sổ đỏ. Vậy cho em hỏi là ông A và ông B có quyền thưa em và mẹ em ra tòa vì tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" không? Và nếu không chứng minh được em và mẹ em đúng thì em và mẹ em sẽ bị xử phạt như thế nào? Cảm ơn Luật Sư.
Việc bạn và mẹ bạn có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không phụ thuộc vào việc chứng minh của cơ quan điều tra. Nếu không có chứng cứ chứng minh thì không thể truy cứu. Ngoài ra, như bạn trình bày thì bạn và mẹ không bán cho ai khác nên không vi phạm pháp luật và không phải chịu phạt.
Xin chào, tôi xin trình bày sự việc như sau:  Gia đình tôi có ông nội, bà nội, ba mẹ tôi và 3 anh em tôi. Trong thời gian sống chung và ở trong cùng một gia đình với nhau, ông bà nội có hứa là sẽ cho tất cả số đất mà ba mẹ tôi đang canh tác và ở trên đó, gồm: có đất ở (thổ cư ,trong cây lâu năm) và đất trồng cây nông nghiệp. Đất là do ông nội đứng tên chủ hộ, ông nội mất năm 2009 (không để lại di chúc), bà nội nay đã già yếu (sn 1929) còn minh mẫm. Gia đình ông bà nội gồm có 5 người con, trong đó có ba tôi. Trong hộ khẩu gồm : Ông nội ,bà nội ,ba ,mẹ ,tôi ,2 đứa em tôi, cô út và con của cô út. 3 người con còn lại của ông bà nội thì có chồng ra ở riêng nay là hơn 20 năm. Ba tôi mất năm 2010, nay bà nội và những người  con của ông bà nội (tức 4 người còn lại), nói là không cho gia đình tôi đất đó nữa và đòi phân chia tài sản. Trong khi đó nói là hồi trước khác bây giờ khác,ví do là chỉ hứa cho bằng lời nói chứ không có bất cứ giấy tờ nào. Đất gồm có 4 phần: 3 phần đất cây nông nghiệp  là ba mẹ tôi đã trồng cây cao su từ khi ông bà nội hứa cho,.và đồng ý cho trồng. Phần còn lại là đất mặt tiền (đất thổ cư) ông bà nội cũng đã đồng ý cho xây dựng nhà trên đó cách nay 5 năm. Ba mẹ tôi canh tác và làm kinh tế, đống thuế đất trên miến đất đó nay đã hơn 20 năm. Vậy cho tôi hỏi : Nếu phân chia tài sản thì phân chia như thế nào? Cái nhà trên đất mặt tiền đó có phải chia luôn không, cây cao su có phải cưa thanh lý trả đất lại không ? Nay các cô làm đơn xin được thừa kế quyền sử dụng đất cho bà nội và gửi lên CA xã , Vậy bà nội tôi và các cô được thừa kế những gì trên tổng số tài sản trên? Tôi hoang man quá mong được giải đáp thắc mắc, thành thật cảm ơn.
1. Bạn chưa làm rõ là diện tích đất đứng tên chủ hộ ông nội bạn có nguồn gốc thế nào nên chưa thể xác định "hộ gia đình" được công nhận quyền sử dụng đất gồm những ai. Nếu thửa đất đó được chính quyền giao đất cho hộ gia đình thì những thành viên trong thời kỳ giao đất là đồng sở hữu thửa đất đó. Nếu thửa đất sử dụng không có giấy tờ và được Nhà nước công nhận do sử dụng ổn định, lâu dài thì những người có tên trong hộ khẩu thời kỳ được cấp GCN QSD đất sẽ là đồng sở hữu tài sản; 2. Việc hứa cho nhà đất không phải là căn cứ pháp lý để Tòa án xem xét giải quyết khi có tranh chấp, thậm chí cho tặng nhà đất bằng lời nói hoặc văn bản nhưng chưa đăng ký cũng chưa chắc đã có hiệu lực pháp luật; 3. Các cô, chú bác của bạn có thể khởi kiện để yêu cầu chia tài sản chung của hộ gia đình và chia thừa kế đối với phần di sản do ông nội bạn để lại theo quy định pháp luật; 4. Những tài sản cho bố mẹ bạn tạo lập thì bố mẹ bạn được quyền sở hữu. Nếu sau khi Tòa án giải quyết mà ai được chia phần đất có công trình xây dựng, cây cối của gia đình bạn thì họ phải có trách nhiệm thanh toán giá trị tài sản trên đất đó cho gia đình bạn. Ngoài ra, gia đình bạn còn có công duy trì, tu tạo tài sản nên sẽ được Tòa án xem xét giải quyết.
Kính chào luật sư!! Mảnh đất gia đình em đang ở là của ông bà để lại. Hiện ông bà đã mất, và mảnh đất đó đang đứng tên mẹ của em. Ông bà có 3 anh em trai, bố em và 1 người bác đã mất, còn lại chú của em. Mẹ em sinh được 3 anh em ( 2 trai, 1 gái). người bác sinh được 1 người con trai. người chú sinh được 2 người con ( 1 trai, 1 gái). Vậy theo luật thì mảnh đất đó sẽ được chia như thế nào? lưu ý: gia đình em đang ở và làm ăn trên mảnh đất đó từ rất nhiều năm nay. Kính mong luật sư giải đáp thắc mắc cho em được rõ với ah. Em chân thành cảm ơn luật sư
Nếu mảnh đất đứng tên mẹ của em (được cấp sổ sau ngày ông bà mất) thì đó là tài sản của mẹ em và bố em (nếu tài sản tạo trong thời kỳ hôn nhân của bố mẹ em. Muốn thì chỉ chia cho các con của mẹ em. Tuy nhiên do em nói có nguồn gốc từ ông bà nên cần xem lại việc mẹ em đứng tên trên giấy tờ như thế nào, từ thời điểm nào mới trả lời chính xác được! Nếu chỉ là đứng tên đại diện khai trình và quản lý sử dụng, thì nếu xảy ra tranh chấp sẽ chia làm 03 phần cho 03 người con của ông bà. Người nào chết thì con và vợ của người đó nhận thay
2 vợ chồng tôi lấy nhau được 2 đứa con,1 trai và 1 gái. Trước đó ,chồng tôi đã có 1 đời vợ và 2 người con trai ,đã ly hôn, còn tôi khi lấy nhau không có đăng ký kết hôn. Trong thời gian sinh con thứ 2 chồng tôi được gia đình cho 1 số tiền để mua 1 mảnh đất nhưng chưa có nhà ở, khi làm nhà tôi cũng bỏ tiền vào xây dựng nhà để 2 vợ chồng ở ,nhưng kho mua đất mảnh đất ấy lại đứng tên chồng tôi, chưa làm sổ đỏ chỉ là giấy viết tay. Nay chồng tôi đã chết ,tất cả giấy tờ đều do gia đình bên chồng tôi giữ, nay tôi muốn hỏi luật sư 2 con tôi muốn hưởng thừa kế thì cần làm đơn đến cơ quan nào? Và làm những thủ tục gì cần thiết?
Theo quy định của pháp luật nếu chồng bạn chết không để lại di chúc thì di sản chồng bạn để lại sẽ chia theo quy định của pháp luật. Theo quy định Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: "Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; " Vì vậy, bạn và các con bạn đều được hưởng thừa kế của chồng bạn. Đối với căn nhà và đất, nếu đó do vợ chồng bạn mua trong thời kỳ hôn nhân thì đó sẽ là tài sản chung của vợ chồng bạn cho dù chỉ đứng tên một mình chồng bạn (nếu không chứng minh được đó là tài sản riêng). Hoặc ít ra bạn cúng có đóng góp trong việc xây nhà. Nếu là tài sản chung thì đương nhiên bạn được hưởng một nửa, còn lại sẽ được chia đều cho bạn và các con của chồng bạn (gồm cả hai con của vợ trước) và cha mẹ chồng bạn (nếu còn). Nếu bạn muốn chia thừa kế bạn nộp đơn ra Tòa án, đồng thời phải nhờ chính quyền địa phương nơi có nhà và đất của vợ chồng bạn xác nhận tài sản trên là có thật và trình bày luôn là giấy tờ do gia đình chồng bạn đang cất giữ.
Ông tôi có 770 mét thổ thừa kế cho chú tôi 400m2, còn 370m2 vườn.  Giao cho 5 cô con gái sử dụng để trồng cấy nộp sản cho nhà nước. Vậy nay bác tôi muốn dùng 370m2 vào làm nhà thờ cho ông bà tôi có được không? Và 5 cô có được thừa kế mảnh đất đó không?
Bạn trình bày chưa được cụ thể nên tôi không hiểu rõ yêu cầu của bạn. Theo thông tin trên tôi trả lời như sau: I. Về thửa đất ông bạn lập di chúc cho chú bạn hưởng thừa kế 400 m2 đất ở, nếu di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế thì chú của bạn được hưởng phần di sản thừa kế này. II. Thửa đất vườn có diện tích 370 m2 giao cho 05 cô của bạn sử dụng để trồng cây. Đặt ra 02 tình huống: - Thứ nhất: Trường hợp ông bạn để lại di chúc cho 05 cô hưởng thừa kế 370 m2 đất vườn thì phần di sản này thuộc về 05 cô của bạn. - Thứ hai: Trường hợp ông của bạn giao cho 05 cô của bạn quản lý 370 m2 đất vườn để trồng cây thì phần di sản này không được định đoạt trong di chúc (không thể hiện ý chí của ông của bạn nhằm chuyển tài sản của mình cho 05 cô của bạn sau khi chết). Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 675 Bộ Luật dân sự năm 2005 về Những trường hợp thừa kế theo pháp luật: "Phần di sản không được định đoạt trong di chúc". III. Theo quy định tại Điều 676 Bộ Luật dân sự năm 2005 về Người thừa kế theo pháp luật: "1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. 2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. 3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản". Như vậy, tùy vào việc định đoạt của ông bạn nêu ở trên mà bác của bạn có thể xây dựng nhà thờ hay không.
Kính Gửi: Luật sư Tôi là con gái đã đi lấy chồng mà bố đẻ tôi đã mất, hiện nay mẹ đẻ tôi đang đứng tên sổ đỏ thì tôi còn quyền lợi gì nữa không? Trông khi đó, nếu như mẹ tôi mà làm sổ đỏ cho em tôi thì tôi có phải kí không? Tôi xin chân thành cảm ơn luật sư!
Mảnh đất là tài sản của bố và mẹ bạn nên sau khi bố bạn mất không để lại di chúc, mảnh đất sẽ được chia làm hai phần: 1/2 mảnh đất là tài sản của mẹ bạn còn 1/2 mảnh đất còn lại là di sản của bố chia đều cho các đồng thừa kế bao gồm mẹ bạn và các anh chị em của bạn mỗi người một phần bằng nhau. Như vậy, cho dù là bạn đã lập gia đình, ở riêng nhưng bạn vẫn có quyền thừa kế tài sản như các đồng thừa kế khác không phân biệt là có hay chưa có gia đình, ở riêng hay ở chung trong gia đình vì tất cả đầu bình đẳng như nhau. Như vậy, mẹ bạn chỉ được quyền định đoạt 1/2 mảnh đất thuộc quyền sử dụng của mình và một phần mảnh đất được thừa hưởng từ bố bạn với tư cách là một đồng thừa kế chứ mẹ bạn không có quyền định đoạt toàn bộ mảnh đất này mà phải được sự đồng ý của các con là đồng thừa kế của bố bạn
Xin chào Luật Sư, XIn cho tôi hỏi về luật trao tặng và thửa kế đất đai như sau: Cha mẹ tôi trao quyền sở hữu đất cho tôi (hình thức trao tặng), đã ra uỷ ban xác nhận. Mảnh đất này do tôi đứng tên. Xin hỏi luật sư, trong trường hợp tôi muốn sang nhượng hay cầm cố hay trao tặng cho một ai khác thì tôi có được quyền không? Nếu như cha mẹ tôi muốn lấy lại mảnh đất này (không trao tặng nữa) thì có được không? Nếu có, dựa trên yếu tố nào để xét lại? Xin chân thành cảm ơn luật sư.
Trước hết việc cho tặng giữa cha mẹ bạn và bạn đã hoàn thành bạn cũng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, kể từ thời điểm bạn được cáp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì quyền lợi của bạn đã được pháp luật bảo vệ. Bạn có toàn quyền để thực hiện việc quản lý, sử dụng và định đoạt chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế nễu bạn muốn không ai có quyền ngăn cản. Cha mẹ bạn chỉ có thể đòi lại thửa đất đó nếu trong hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất là hợp đồng có điều kiện và bạn vi phạm các điều kiện của hợp đồng tậng cho đó bạn mới bị cha mẹ đòi lại thửa đất.
Chào Luật Sư! Vào khoảng năm 1995 mẹ tôi có mua 1 mảnh đất của ông Nguyễn Văn A (em ruột của mẹ tôi) có DT sử dụng là 1000m2, với số tiền tại thời điểm đó là: 64 chỉ vàng theo hợp đồng mua bán bằng giấy tay giữa 2 bên. Khi đó mẹ tôi đã đưa trước cho ông Nguyễn Văn A là 25 chỉ vàng còn lại 39 chỉ hẹn đến khi bên ông Nguyễn Văn A giao giấy tờ quyền SDĐ thì mẹ tôi sẽ thanh toán đủ số vàng còn thiếu theo HD mua bán đất. Đến thời điểm mẹ tôi sang trả số vàng còn lại để được nhận giấy chứng nhận quyền SDĐ thì  Vợ của ông Nguyễn Van A không đồng ý số  tiền theo HD trước kia mà đòi thêm 16 chỉ vàng nửa mới giao QSDĐ(lúc này ông Nguyễn Văn A đã chết). Hiện mẹ tôi không đồng ý với ý kiến của vợ ông Nguyễn Văn A nên 2 bên xảy ra tranh chấp thửa đất trên (mẹ tôi hiện đang còn giữ tờ giấy viết tay mua bán đất giữa mẹ tôi va ông Nguyễn Văn A). Từ khoảng năm 1995 đến nay, Gia Đình tôi vẫn đóng thuế nhà đất cho mảnh đất đang tranh chấp trên, nên xin Luật Sư cho biết GD tôi có thể hợp pháp lấy lại mảnh đất đó hay không? Xin chân thành cảm ơn Luật Sư!
Thửa đất đó đang có tranh chấp nên gia đình bạn không thể được cấp GCN QSD đất. Thửa đất đó đã có GCN QSD đất đứng tên người khác nên sau khi có bản án, quyết định của Tòa án tuyên bộ gia đình bạn được sử dụng hợp pháp thửa đất đó thì gia đình bạn mới có thể được cấp GCN QSD đất căn cứ vào bản án đó. Nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của gia đình bạn đảm bảo về mặt nội dung, chỉ vi phạm về mặt hình thức thì Tòa án sẽ buộc các bên phải thực hiện thủ tục sang tên.. Bạn có thể tham khảo thêm các quy định về hướng dẫn giải quyết tranh chấp hợp đồng tại Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP và Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP của HĐTP TAND tối cao để vận dụng vào trườ.ng hợp cụ thể của gia đình bạn
Gia đình tôi có 125m2 đất thổ cư nằm bên cạnh diện tích đất của anh Bùi Trọng Huy. Do diện tích đất của tôi nằm phía bên trong nên tôi và anh Huy đã thỏa thuận đổi một phần diện tích đất để tôi có thể làm nhà quay ra mặt đường. Hai gia đình chúng tôi đã làm văn bản về việc đổi đất này. Tôi xin hỏi việc đổi đất của chúng tôi có hợp pháp hay không và trình tự, thủ tục như thế nào?
Luật Đất đai không quy định về việc chuyển đổi đất thổ cư mà chỉ quy định việc chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp giữa các hộ gia đình, cá nhân với nhau. Do vậy, việc gia đình anh và hàng xóm thỏa thuận đổi một phần diện tích đất thổ cư là không phù hợp với quy định pháp luật. Để anh có thể làm nhà ra mặt đường theo nguyện vọng, anh và anh Huy có thể lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho nhau.
Chào luật sư, mong luật sư tư vấn giúp em, sự việc năm 1999 ông Nội em có cho Ba em  miếng đất  vườn 200m2  trên mảnh đất đó có ngôi nhà để ở, do lúc đó gia đình đang khó khăn chưa sang tên được, Cô em được ông Nội cho đứng tên sổ đỏ tất cả tài sản, vào năm 2012 Cô em đem giấy đỏ đó cầm thế chấp và làm hợp đồng chuyển nhượng mảnh  đất vườn 200m2 cho người cầm đó, gia đình em không hề hay biết, gia đình em đang sinh sống người đó vô nói là nhà và đất đã sang tên cho người cầm đó rồi và buộc nhà ra phải dọn ra. Thưa luật sư gia đình muốn làm đơn khiếu nại thì làm như thế nào xin luật sư tư vấn giúp em! em rất mong nhận được phản hồi của luật sư. (xin nói thêm là nhà và đất của ông bà Nội em cô em đã chuyển nhượng hết bây giờ ông bà không có chỗ ở, đất đai mất hết nhưng ông bà thương cô nên không thưa kiện)
Việc ông nội bạn có cho ba bạn 1 miếng đất vườn 200m2. Nhưng gia đình bạn đã chưa làm các thủ tục theo qui định để chuyển quyền sở hữu miếng đất trên. Do vậy, về pháp lí miếng đất này vẫn chưa thuộc quyền sở hữu của gia đình bạn. Mãi đến sau này thì cô bạn lại được ông nội của bạn cho đứng tên tòan bộ tất cả tài sản và cô bạn đã hoàn tất các thủ tục chuyển quyền sử dụng đất. Nên hiện tại bây giờ cô bạn đang là chủ sở hữu của tòan bộ tài sản do ông nội bạn chuyển giao và đã được pháp luật công nhận. Vì vậy, việc gia đình bạn muốn làm đơn khiếu nại thì cần phải có các chứng cứ để chứng minh cho việc khiếu nại đó là gì.
Gia đình tôi có 5 anh chị em. Năm 2004 do bố tôi già yếu, mẹ tôi đã mất nên đã tiến hành họp gia đình. Theo biên bản họp đã nhất trí cho tôi hưởng thừa kế mảnh đất 372m2 của bố mẹ tôi. Biên bản có chữ ký của hai chị gái tôi, do hai anh tôi ở xa nên không ký được. Mảnh đất đó đã sang tên cho vợ chồng tôi từ năm 2004. Nay chị gái tôi có ý định đòi lại một phần đất mà chị nói là đựơc hưởng của bố mẹ tôi. Nếu không chúng tôi phải trả lại tiền cho chị ấy. Vậy tôi muốn hỏi quý báo như vậy có đúng không?
Vì thông tin anh cung cấp cho chúng tôi chưa thực sự đầy đủ như thời gian mẹ anh chết là năm bao nhiêu? Khi mẹ anh chết có để lại di chúc gì hay không? Việc ký các giấy tờ đồng ý cho anh hưởng thừa kế mảnh đất có được công chứng hay không?.... Nên chúng tôi xin đưa ra phương hướng giải quyết như sau: Theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân… Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung. Vì vậy, mảnh đất 372m2 là tài sản chung của bố mẹ anh trong thời kỳ hôn nhân. Khi mẹ anh chết không để lại di chúc, bố anh vẫn còn sống cho nên phần di sản của mẹ anh (phần diện tích đất 186m2) được chia theo quy định pháp luật. Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 676 Bộ Luật Dân sự thì bố, hai anh của anh, hai chị của anh, và anh thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được chia đều phần di sản của mẹ anh để lại. Phần diện tích đất 186m2 còn lại vẫn thuộc quyền sở hữu của bố anh. Năm 2004 gia đình anh đã họp gia đình và thống nhất cho anh mảnh đất trên, mảnh đất đó đã được sang tên cho vợ chồng anh. Nếu anh có văn bản chứng minh các anh, chị của anh từ chối nhận di sản thừa kế mà mẹ anh để lại (Điều 642 Bộ luật dân sự 2005) hoặc sau khi nhận di sản thừa kế của mẹ anh các anh, chị của anh đã tặng cho lại cho anh theo hợp đồng tặng cho có công chứng, chứng thực (Điều 467 Bộ luật Dân sự năm 2005) thì phần diện tích đất thuộc di sản mẹ anh để lại các anh chị của anh không được quyền đòi lại. Riêng đối với phần diện tích đất của bố anh ( bao gốm 186 m2 đất và phần di sản mẹ anh để lại) vì bố anh còn sống nên nếu thông qua việc họp gia đình bố anh thống nhất cho anh toàn bộ diện tích đất nói trên thì bố anh cần làm hợp đồng tặng cho có công chức, chứng thực tặng cho phần diện tích đất nói trên cho anh. Và anh, chị của anh sẽ không có quyền đòi phần tài sản của bố anh cho anh.
Kính gửi luật sư! Hiện nay trong gia đình cháu đang có một việc tranh chấp về đất đai. Cụ thể như sau ạ: ông bà cháu hiện có một mảnh đất khoảng 400m2. mà trong hộ khẩu của mảnh đất đó bây giờ hiện tại chỉ có ba người đó là bà (chủ hộ), bác cháu và bố cháu. Ông cháu đã mất rồi. Nhưng từ ngày xưa, việc làm quyền chủ sở hữu mảnh đất đó lại là lao động chính trong nhà (tức là bác cháu). Bây giờ nếu việc tranh chấp phải nhờ đến tòa án thì cháu muốn hỏi, liệu bà cháu có tất cả các quyền trong việc quyết định sẽ chia đất cho ai không ạ? Hay quyền đó lại thuộc về bác cháu, người đứng tên sổ đỏ cho mảnh đất đó?
Trường hợp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) cấp cho hộ gia đình vào thời điểm nào thì tất cả những người có tên trong sổ hộ khẩu vào thời điểm đó được chứng nhận quyền sử dụng đất, bác của bạn là người đại diện hộ gia đình đứng tên trên sổ đỏ, trong đó bà của bạn có một phần quyền sử dụng đất bằng những người khác. Vì vậy, bà của bạn chỉ có quyền tặng cho người khác phần quyền sử dụng đất của mình. Trường hợp sổ đỏ cấp cho một mình cá nhân bác của bạn thì bác của bạn có quyền quyết định đối với các giao dịch liên quan đến thửa đất trên.
Bố tôi mua một khu đất của ông A từ năm 2005 (có đầy đủ giấy tờ mua bán và đã trả đủ tiền). Đến nay là 10 năm, cả bố tôi và ông A đều đã qua đời. Bìa đỏ hiện vẫn mang tên ông A. Tôi muốn hỏi về thủ tục làm giấy tờ chuyển quyền sử dụng đất? Ngoài ra, nếu bây giờ các con của ông A gây khó khăn do không được làm chứng việc mua bán đó thì phải làm thế nào?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 100 Luật đất đai năm 2013 mảnh đất này thuộc trường hợp được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và đất đó không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.” Trong trường hợp này, bạn cần làm thủ tục khai nhận thừa kế tại tổ chức hành nghề công chứng và đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở mang tên bạn theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bạn nên lưu ý, nếu trong trường hợp sổ đổ mang tên ông A nhưng đây là đất cấp chung của hộ gia đình ông A là người đại diện đứng tên thì việc chuyển quyền sử dụng đất sang tên bạn phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình ông A theo quy định tại Điều 109 Bộ luật Dân sự 2005 về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của hộ gia đình như sau: “1. Các thành viên của hộ gia đình chiếm hữu và sử dụng tài sản chung của hộ theo phương thức thoả thuận. 2. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý.”
Trước đây vào năm 1982 bố em được bác ruột cho về nhà bác ở cùng gia đình ông ấy (em gọi ông ấy bằng ông nội bác). Nhưng ông và gia đình cũng có nhà nơi khác nên cũng ít ở nhà này. Vài năm sau nhà cửa dột nát nên bố em tu sửa và sử dụng. Đến năm 1996 thì ông viết giấy chuyển nhượng lại cho bố em toàn quyền sử dụng. Giấy chuyển nhượng có một người làm chứng, được chính quyền ký và đóng dấu. Và đã được cấp sổ đỏ cho bố em. Năm 2010 thì ông nội bác qua đời và đến năm nay thi gia đình em chuyển nhượng lại ngôi nhà này cho người khác thì con của ông đến khiếu nại và đòi được chia một nữa. Và bố em nghĩ tình anh em nên cho họ 200 triệu đồng. Nhưng họ không đồng ý và đòi kiện.  Vì vậy luật sư cho em hỏi vụ kiện này có bất lợi gì cho gia đình em hay không? Và phần thắng có chắc chắn cho gia đình em hay không?  Và nếu họ kiện thì ai sẽ chịu án phí, án phí tính như thế nào? Và thời gian đợi tòa xét sử là bao lâu ạ?
​- Trên cơ sở thông tin bạn nêu, sơ bộ nhận thấy, việc bố bạn được cấp sổ đỏ là phù hợp với quy định pháp luật nên bố bạn được pháp luật bảo vệ các quyền của mình với mảnh đất đó, trong đó có quyền bán lại cho người khác. - Khi bị kiện thì chắc chắn là có bất lợi, ít nhất là mất thời gian, công sức, tình cảm. - Như trên đã nêu, bên bạn có nhiều cơ sở pháp lý để thắng kiện. Tuy nhiên, kiện tụng là một quá trình, tòa án đánh giá toàn bộ vụ án để xác định bản chất vấn đề (sự thật khách quan của vụ việc) và đưa ra phán quyết phù hợp với quy định pháp luật. Vì vậy, tòa chưa tuyên thì chưa thể khẳng định "chắc chắn" (hiểu theo nghĩa 100%) việc thắng-thua. - Án phí tính bằng khoảng 4-5% giá trị tranh chấp (nếu tranh chấp tính thành giá trị) hoặc 200.000 đồng (nếu không tính được thành giá trị). Bên thua chịu theo phần mình thua tương ứng. - Luật quy định tòa án có khoảng 7 tháng để mở phiên tòa sơ thẩm, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Hiện nay gia đình chúng tôi đang có một số vấn đề muốn nhờ luật sư tư vấn. Gia đình của mẹ tôi có 07 anh chị em gồm 3 người con trai và 4 người con gái. Nhưng người anh cả của mẹ tôi đã hi sinh trong chiến tranh và có một người em gái út cũng bị mất tích từ năm 1994 cách đây 02 năm thì gia đình mẹ tôi nghe tin là người em đó đã mất ở bên Quảng Tây Trung Quốc. Như vậy hiện nay gia đình mẹ tôi chỉ còn 05 anh chị em là 1 người chị trên của mẹ tôi và 03 người em dưới mẹ tôi. Hiện nay mọi người đều đã lập gia đình. Ông ngoại tôi có 1 mảnh đất nằm trên đường A, ông đã chia mảnh đất đấy ra làm 03 phần trong đó ông giữ lại một phần để ở còn hai phần còn lại ông chia cho 02 người con trai. Khi ông sắp qua đời ông có ý định bán mảnh đất ông đang ở để chia phần cho 03 người con gái còn lại trong đó có mẹ tôi. Thời điểm đó ông ngoại tôi bán ngôi nhà được số tiền là 750 triệu chia cho 03 người con gái mỗi người 200 triệu. Khi ông bán ngôi nhà đó đi nhưng lại không muốn ở cùng người con nào vì sợ bất tiện nên ông quyết định mua một ngôi nhà nhỏ hơn nằm trên đường B. Thời điểm mua ngôi nhà đó là năm 2007 với số tiền là 400 triệu. Nhưng do không đủ tiền nên ông muốn mượn lại của 03 người con gái mỗi người một ít tiền. Người em gái dưới mẹ tôi do vỡ nợ nên không thể đưa lại tiền cho ông ngoại tôi được. Vì thế chỉ có mẹ tôi và chị gái của mẹ tôi đưa cho ông mỗi người 100 triệu. Khi mẹ tôi và chị gái đưa tiền cho ông thì ông có viết tay một tờ giấy có ghi rõ là sau này khi ông mất sẽ bán ngôi nhà này để trả lại số tiền đã mượn cho các con. Nhưng tới thời điểm giao tiền cho chủ ngôi nhà thì họ đòi tăng giá lên 450 triệu vì thế mà thiếu 50 triệu. Chị gái của mẹ tôi đã bỏ 50 triệu đưa cho ông ngoại tôi. Và ngôi nhà đó đã được đứng tên của chi gái mẹ tôi. Bây giờ ông ngoại tôi đã mất đến tháng 11 này sẽ được sang cát. Hiện nay ngôi nhà này vẫn bỏ không và đang được dùng để hương hỏa cho các cụ. Chị gái của mẹ tôi không hề có ý định muốn bán ngôi nhà này. Vậy bây giờ chúng tôi muốn nhờ luật sư tư vấn là liệu mẹ tôi muốn đòi lại quyền lợi mà trước kia đóng góp có được không ah? Nếu được thì phải làm như thế nào? Giá trị của ngôi nhà thời điểm bây giờ ước tính là 1 tỷ nếu phân chia thì sẽ tính như thế nào? Mong nhận được hồi âm sớm. Tôi xin chân thành cảm ơn!!!
- Theo thông tin ban nêu thì ngôi nhà đó đang đứng tên chị gái của mẹ bạn (khi lập hợp đồng mua bán nhà thì chị giái của mẹ bạn đứng tên là bên mua nhà) do vậy về mặt pháp lý thì chị gái của mẹ bạn có toàn quyền quyết định đến ngôi nhà đó. - Do vậy, để đảm bảo được quyền lợi của mẹ bạn thì mẹ bạn cần chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ để chứng minh là: Người mua là là ông ngoại bạn chứ không phải là bác bạn; Người thực hiện giao dịch, thanh toán tiền là ông ngoại bạn; Bác bạn chỉ là người đứng tên giùm; Số tiền mua nhà đó là ông ngoại bạn vay một phần của bác bạn, một phần của mẹ bạn... Nếu mẹ bạn chứng minh được nội dung như vậy thì ngôi nhà đó sẽ là di sản thừa kế của ông ngoại bạn. Nếu ông bạn không có di chúc thì ngôi nhà đó sẽ thuộc về các thừa kế của ông ngoại bạn theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 Bộ luật dân sự (cha. mẹ, vợ và các con của người chết. Nếu con của người có di sản đã chết trước hoặc chết cùng người có di sản thì cháu được hưởng thay). - Nếu có tranh chấp khiến tòa án giải quyết và có căn cứ xác định ngôi nhà đó là di sản do ông ngoại bạn để lại thì giá trị ngôi nhà sẽ trừ đi các khoản nợ của ông ngoại bạn (trả lại cho mẹ bạn và bác bạn..) còn lại chia đều cho các thừa kế; - Thời hiệu khởi kiện tranh chấp thừa kế là 10 năm kể từ ngày ông ngoại bạn qua đời. Do vậy, nếu gia đình bạn không thỏa thuận được thì mẹ bạn có thể khởi kiện yêu cầu chia thừa kế và đòi lại số tiền mà ông bạn đã vay để mua nhà trước đây.
Luật sư cho cháu hỏi vấn này với ạ: Việc là như thế này, cách đây mấy năm nhà cháu có mua một mảnh đất nhà hàng xóm và bản thân mảnh đất đó chưa có sổ đỏ, việc mua bán vẫn diễn ra bình thường và được lập thành văn bản nhưng không có công chứng hay chứng thực gì cả và chỉ có sự làm chứng và ký nhận của bác trưởng thôn xóm. Nhưng thời gian gần đây ở chỗ cháu có kế hoạch dồn điền đổi thửa để mở rộng đường của xóm và mảnh đất nhà cháu nằm trong phạm vi bị quy hoạch để mở rộng đường. Và khi đó chính quyền sẽ đền bù một phần đất khác tương ứng với phần đất bị lấn để làm đường. Nhưng cháu băn khoăn vấn đề này là nếu chính quyền có bồi thường phần đất bị quy hoạch cho chủ mảnh đất trước và trong trường hợp vì lòng tham mà người ta không trao trả lại phần bồi thường đó cho nhà cháu thì nhà cháu sẽ phải làm như thế nào ạ? Và mảnh đất đó chưa có sổ đỏ nên nếu xảy ra tranh chấp thì phải dựa vào căn cứ gì để đòi lại phần bồi thường đó không ạ? Cháu rất mong nhận được sự tư vấn của luật sư và cháu xin chân thành cảm ơn luật sư!
1. Theo quy định hiện hành, mọi giao dịch đất phải được lập thành văn bản có công chứng, vì đất gia đình bạn mua chưa có sổ đỏ nên việc công chứng cũng chưa được thực hiện, và do vậy, pháp luật hiện nay chưa công nhận việc chuyển quyền sử dụng đất giữa hai bên. 2. Sự kiện dồn điền đổi thửa khiến cho thửa đất nằm trong phạm vi bị quy hoạch và chính quyền sẽ xem xét cấp cho chủ sử dụng một thửa đất ở vị trí khác, chủ đất cũ sẽ là người được xem xét. Tuy nhiên, hai bên có thể làm đơn đề nghị ủy ban nhân dân xã công nhận việc chuyển giao quyền sử dụng đất trên thực tế của chủ cũ cho gia đình nhà bạn để gia đình nhà bạn được nhận bồi thường về đất. Nếu chủ đất cũ không thiện chí và có ý lật lọng thì đây là một rủi ro cho gia đình nhà bạn, như đã phân tích ở trên, giao dịch trên chưa được công nhận và sẽ bị tuyên là vô hiệu nếu xảy ra tranh chấp. Hậu quả giải quyết hợp đồng vô hiệu là hai bên trả lại cho nhau những gì đã nhận, tòa sẽ xem xét lỗi của hai bên để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại (gia đình nhà bạn cũng có một phần lỗi là không nhận thức đầy đủ yêu cầu của pháp luật đối với giao dịch nên đã tham gia một giao dịch chưa hợp pháp về trình tự, thủ tục và điều kiện).
12/2011 tôi có làm hợp động đặt cọc để mua đất, trong hợp đồng đặt cọc có bản vẽ và kích thước đầy đủ các cạnh của miếng đất cần mua. Đồng thời ghi rõ là bên bán phải chuyển đổi mục đích sử dụng sang đất ở và sang tên đổi chủ sang cho bên mua(ban đầu tôi đã có miếng đất rộng 4,5mx11m-tôi làm hợp đồng đặt cọc để mua thêm 5m đài phía sau nữa để đủ 16m, tuy nhiên trong 5m đất này thì có 3m ở phía sau cùng là phần hành lang lưu không mương của thành phố nên tôi không thể mua và chuyển đổi quyền sử dụng đất sang tên mình được. Tuy nhiên bên bán lại không cho tôi biết thông tin này khi bán.(giống như lừa đảo vậy). Vì muốn hài hỏa cả 2 bên tôi đồng ý chấp nhận chỉ được 2m thôi, nhưng bên bán cũng đồng ý chuyển đổi thêm 1 phần đất khác tiếp giáp phần đất 2m nhưng lại mở rộn sang bên cạnh (coi như đất của tôi thành hình chữ L mà phần chân chữ L thì hẹp vì chỉ có 2m rộng x 8m dài) Tất cả thỏa thuận chỉ bằng lời nói ngoài trừ hợp đồng đặt cọc ban đầu là có giấy tờ và ký kết. Trên phần đất tôi định mua có 1 căn nhà cấp 4 cũ nát của bên bán, thống nhất là nêu tôi mua song thì bên bán sẽ tháo dỡ. Tuy nhiên hiện nay tôi định làm nhà thì bên bàn trở mạt không tháo dỡ nhà cũ mà dịch ra phía sau 2m để trả lại đất cho tôi còn 3m lưu không mương thì họ định tận dụng làm nhà cho thuê trong khi đáng lẽ nếu có tận dụng thì tôi mới là người được sử dụng, bên bán tỏ thái độ thách thức và gây áp lực vì toi muốn tận dụng 3m lưu không mương phía sau để làm một số công trình phụ trợ, không kiên cố (nếu nhà nước có thu hồi thì tôi sẽ phá bỏ) vì thưc tế tất cả các nhà dân xung quanh đều làm thế.Quay về họp đồng đặt cọc ban đầu, muốn căn cứ theo hợp đồng đặt cọc cũ này để khởi kiện bên bán vì không hoàn thành hợp đồng đặt cọc! vì theo hợp đòng này thì mua bán là phần đất 5m chứ không phải 2m. Mặc dù bên bán đã chuyển đổi cho tôi 2m và sang tên đổi chủ rồi. Nhưng căn cứ theo hợp đồng đặt cọc thì tôi có khởi kiện được không? Xin các luật sư giúp đỡ! Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tôi chỉ lưu ý bạn những vấn đề sau: Hợp đồng đặt cọc là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, do đó nghĩa vụ đó là gì thì bạn phải chi tiết và cụ thể. Trong trường hợp của bạn cần làm rõ: - Nghĩa vụ ký kết hợp đồng; - Nghĩa vụ thực hiện hợp đồng; Vậy nội dung của hợp đồng là gi: Hợp đồng mua bán/chuyển nhượng nhà đất: - Nhà được miêu tả thế nào: - Đất được miêu tả thế nào: - Đặc điểm trên giấy tờ và đặc điểm trên hiện trạng; - Giá cả, phương thức thanh toán, nghĩa vụ thế, nghĩa vụ đăng ký sang tên trước bạn và nhiều vấn đề khác. Trong trường hợp giao dịch dân sự không rõ ràng có sự hiểu khác nhau thì giải thích giao dịch dân sự theo mục đích xác lập hợp đồng. Ở đây mục đích chung là mua bán, người bán nhận tiền và người mua nhận tài sản, không thể có chuyện bán cả nhà và tài sản trên đất mà quên miêu tả bức tường mà lại nói là không bán bức tường được.
Năm 2004 tôi có mua một mảnh đất của hộ gia đình. Người chồng đã chết, người vợ đứng tên bán, có biên bản họp gia đình gồm 6 thành viên ký tên đồng ý chuyển nhượng. Sau khi mua tôi đã cho 2 người con của tôi và làm sổ đỏ đứng tên các con tôi. Năm 2010 gia đình bên bán có một người con gái làm đơn đòi thừa kế thửa đất tôi mua và đã chuyển tên chủ sở hữu với lý do chữ ký trong biên bản họp gia đình của chị là chữ ký giả mạo. TAND đã xét xử và hủy hợp đồng mua bán đất năm 2004 của tôi với lý do hợp đồng vô hiệu. Xin hỏi luật sư TAND xét xử như thế đúng không,
Trường hợp của ông cần phải chứng minh chữ ký của người đó tại văn bản là thật hay giả. Chứng minh được vấn đề này sự việc sẽ được giải quyết. Về nguyên tắc tòa án tuyên như trên là có cơ sở, hậu quả pháp lý của việc tuyên hợp đồng vô hiệu chắc ông đã được Tòa án giải thích. Trường hợp không đồng ý với quyết định của tòa án cấp sơ thẩm ông có quyền kháng cáo để xét xử vụ việc theo trình tự phúc thẩm.
Cha mẹ tôi có mua một đám đất. Năm 1955 sinh tôi rồi cha mẹ tôi li dị, sau đó cha tôi cưới người vợ sau và sinh thêm 4 người con: 3 trai, 1 gái. Khi cha tôi qua đời, chưa để lại di chúc, người mẹ kế khi ấy đang sử dụng đất, sau này lấy sổ đỏ. Khi bà mẹ kế còn sống bà có gọi 4 người con và tôi là 5 người: 2 gái, 3 trai để chia đất. Khi chia mẹ kế tôi có thương lượng với 2 người con gái, trong tình gia đình tạm thời mảnh đất đó cho 3 người con trai canh tác nhưng không được bán, nếu bán thì sẽ có phần cho 2 người con gái. Trong thời gian sử dụng đất, sổ đỏ vẫn đứng tên mẹ tôi, người con trai út đang giữ sổ đỏ. Người con trai út mạo chữ ký của mẹ tôi đem đi thế chấp vì thế tôi và em gái tôi đòi lại đất, 2 người con trai đồng ý trả còn người con trai út thì không. Luật sư cho tôi hỏi: 1) Tôi có quyền đòi phần thừa kế tài sản đất khi cha tôi mất chưa để lại di chúc hay không? 2) Phần tài sản đất mẹ tôi trước đó đã cùng cha tôi mua; giấy tờ mua đất và trích lục đầy đủ, tôi có thể đòi lại được không? 3) Tôi có quyền đòi lại phần đất mẹ kế tôi chia hay không, vì người con trai út đã đem sổ đỏ đi thế chấp. Tôi xin cảm ơn luật sư.
Như thông tin bạn nêu thì mảnh đất đó là của bố mẹ ruột bạn vì vậy mỗi người trong họ có 1/2 mảnh đất. Bố, mẹ bạn đã mất thì bạn là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cả 2 người đó nên bạn được hưởng di sản thừa kế của cả mẹ bạn và bố bạn. Như vậy: - Bạn có quyền đòi phần tài sản mình được thừa kế. - Bạn muốn được chia diện tích đất mẹ kế cho thì phải chứng minh được việc được chia cho đó. - Các đồng thừa kế đều có quyền đối với di sản thừa kế và họ chưa đồng ý thì mọi giao dịch liên quan đến di sản đó đều không có giá trị pháp lý nên việc người con út đem sổ đỏ thế chấp là chưa được pháp luật thừa nhận.
Tôi sinh năm 1955 có mượn tiền góp của bà A số tiền là 300 triệu. Tôi đã trả góp cả lời lẫn gốc được 160 triệu. nhưng do tôi trả góp ngày nên không có giấy tờ. Nên khi bà A thưa tôi ra tòa thì tôi bị tòa xử thua và buộc tôi phải trả cho bà A số tiền là 300 triệu. tôi với chồng tôi lấy nhau từ xưa giờ và có 4 mặt con, nhưng không có làm giấy kết hôn. Sau này vào năm 2011 vợ chồng tôi mới làm giấy đăng ký kết hôn. Vậy xin hỏi luật sư tài sản đất đai của vợ chồng tôi đứng tên của cá nhân chồng tôi. Vậy tài sản đó có bị kê biên không? Xin luật sư giải đáp giùm.
Những trường hợp chung sống với nhau trước 1.7.1987 tức ngày luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực thay thế cho luật HN va GĐ 1959 thì vẫn được pháp luật công nhận, chứ không phải đợi đến năm 2011 lúc ông bà kết hôn mới công nhận. Do vậy dù chồng bà đứng tên một mình nhưng đó vẫn là tài sản chung, do vậy nếu bà không chịu trả hoặc không còn tài sản khác để đảm bảo thi hành án thì căn nhà trên vẫn bị kê biên.
Chào anh, Cho e hỏi, ông ngoại e có 6 người con, ông ngoại bà ngoại còn sống có 10 công đất sau khi ông bà ngoại qua đời thì không có viết di chúc cho ai cả, mẹ e là người mất sớm, vậy cho e hỏi 10 công đất đó có được chia cho mẹ e hay không và e có được thừa kế hay không?
- Theo quy định tại Điều 676, 677 Bộ luật dân sự thì các anh chị em bạn được hưởng phần thừa kế mà lẽ ra mẹ bạn được hưởng từ ông bà ngoại bạn. Nếu mẹ bạn chết trước hoặc chết cùng với ông bà ngoại bạn thì các anh, chị em bạn sẽ được hưởng phần thừa kế của ông bà ngoại bạn để lại cùng với các cậu, bác... của bạn. Nếu mẹ bạn chết sau ông bà thì bố bạn cũng được hưởng cùng với các anh, chị em bạn đối với phần di sản của mẹ bạn được hưởng trong số di sản ông bà ngoại bạn để lại. - Gia đình bạn có thể thỏa thuận với các anh, chị em của mẹ bạn để phân chia thừa kế của ông bà ngoại bạn. Nếu không thỏa thuận được và còn thời hiệu khởi kiện về thừa kế (10 năm) thì gia đình bạn có thể khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết.
Gia đình tôi đã đổi đất lấy đất của nhà ông Bác tôi, hai bên sử dụng ổn định không có tranh chấp gì từ nhưng năm 1980 tới năm 2007.  Thì ông bác tôi viết đơn kiện tụng để lấy lại mảnh đất đã đổi với gia đình tôi, (nói là lý do đất ông cha để lại). trước đó thì không có vấn đề gì sảy ra, mảnh đất nhà ông ấy vẫn đang sử dụng của nhà tôi bình thường. Vậy tôi xin hỏi Luật sư? Hiện nay cả 2 bên đều không có bằng chứng về nguồn gốc và chứng cứ chứng minh là đất của mình.  Vậy trong trường hợp này cần phải giải quyết như thế nào, và theo điều luật nào?
Theo bạn trình bày thì gia đình bạn đã sử dụng diện tích đất được đổi đó từ năm 1980 ổn định, không tranh chấp. Như vậy, trong toàn thời gian sử dụng đất bạn phải thực hiện nghĩa vụ đóng thuế, hay các nghĩa vụ tài chính khác, những biên lai nộp thuế, hay giấy tờ liên quan cũng có thể là giấy tờ chứng mình đất đó là của gia đình bạn. Bên cạnh đó, còn các giấy tờ liên quan đến việc đổi đất, hay người làm chứng việc đổi đất... Tuy nhiên, trường hợp nếu không có các giấy tờ, tài liệu trên thì có thể xem xét nguồn gốc đất, hay hiện trạng sử dụng đất tại bản đồ địa chính xã.
Tôi đang có nhu cầu mua khoảng 3600 m2 đất nông nghiệp. Mục đích sử dụng là trồng cây ăn quả lâu năm và làm nhà ở. Xin hỏi luật sư thủ tục để mua bán gồm những gì? chi phí mua bán do bên nào trả? Với diện tích đất như trên thì chi phí bao nhiêu?
Các chi phí liên quan đến mua bán chuyển nhượng: 1. Thuế thu nhập cá nhân (Bán chịu); 2. Lệ phí trước bạ (mua chịu); 3. Lệ phí thẩm định cả 2 bên cùng chịu Tổng của 3 loại trên: 2,65% Giá mua bán được xác định theo hợp đồng mua bán của các bên, nếu thấp hơn giá nhà nước thì lấy giá nhà nước.
Ông nội tôi có 7 người con , ba tôi là con cả, lúc ông nội tôi còn sống đã cùng với 6 người con trong nhà đều đồng thuận cho ba tôi đứng tên trong sổ  đỏ với diện tích đất là 400m2 và có lời hứa (chỉ nói miệng chứ không có bằng chứng nào xác thực) với ông Bác thúc bá là sẽ chia cho một lô đất, khi ông nội tôi mất ông không để lại di chúc. Bây giờ ông Bác thúc bá của tôi  nói miếng đất đó là của ông bà để lại và cùng với lời hứa của ông nội tôi khi còn sống nên bắt buộc ba tôi phải chia cho ông một lô, trong khi đó các Cô Chú của tôi thì chưa có ý kiến gì về việc phân chia đất đai cả. Hiện tại ông Bác của tôi nói là đất đai của ông bà nhưng không có giấy tờ gì để làm bằng chứng, trong khi đó ông nội tôi cùng con cháu đã ở trên mãnh đất này từ rất lâu. Vậy, xin hỏi để chứng nhận đất đó là của ông bà thì cần phải có giấy tờ gì và theo luật thì lời hứa của ông nội tôi giá trị như thế nào? Và ba tôi có phải chia đất cho ông Bác thúc bá này không?
Theo qui định của pháp luật về thừa kế điều 676 BLDS 2005 thì đối với các di sản do người chết để lại mà không có di chúc thì về nguyên tắc sẽ được chia đều cho các đồng thừa kế theo các thứ tự sau: hàng thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Như vậy, đối chiếu với trường hợp của bạn, nếu ông nội của bạn không có di chúc do cha của ông nội bạn để lại phần tài sản mà ông nội bạn đang sử dụng thì về nguyên tắc di sản của cha ông nội bạn là di sản chưa chia cho các đồng thừa kế. Theo đó thì các đồng thừa kế ở hàng thứ nhất bao gồm: Vợ, chồng, cha , mẹ, con của người để lại di sản sẽ được hưởng mỗi người một phần di sản bằng nhau. Khi đó thì ông nội bạn và ông bác thúc bá sẽ cũng được hưỡng phần di sản ngang nhau trong khối di sản chưa chia từ bố mẹ của họ.
Gia đình tôi gồm bố mẹ tôi và 5 anh chị em.  Cách đây 3 năm, anh trai tôi được bố cho 1 diện tích đất để làm nhà ở và kinh doanh. Năm vừa rồi, bố tôi chẳng may mất đi. Ý nguyện mẹ tôi là anh trai đã có phần nên phần đất còn lại sẽ cho tôi và các chị em gái. Nhưng anh trai tôi nhất quyết đòi thêm một suất đất trong phần còn lại nữa. Theo các luật sư yêu cầu này có đúng luật hay không, và phần đất còn lại mẹ tôi có thể chia cho anh chị em thế nào là đúng luật.
Trường hợp này là bố bạn mất mà không có di chúc do đó di sản sẽ được chia theo quy định của pháp luật. Khi chia di sản theo pháp luật sẽ được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố bạn gồm: Ông. Bà nội của bạn (nếu còn sống vào thời điểm bố bạn mất); Mẹ bạn; Bạn và các anh, chị, em Mỗi người được hưởng 1 phần như nhau. Điều quan trọng là bạn phải xác định xem di sản của bố bạn để lại gồm những gì và chỉ những gì là tài sản của bố bạn mới là di sản. Mảnh đất nêu trên nếu không phải tài sản riêng mà là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân với mẹ bạn thì chỉ có ½ mảnh đất này được xác định là di sản thừa kế còn ½ là tài sản riêng của mẹ bạn.
Mẹ tôi có một thửa đất mang tên hộ gia đình. Nay mẹ tôi muốn bán một phần trong mảnh đất đó. Mẹ tôi có 2 người con, bố tôi đã mất không để lại di chúc gì. Em tôi đi làm ăn xa không về được nên phải làm hợp đồng ủy quyền cho anh hoặc mẹ ở nhà làm thủ tục chuyển nhượng. Xin hỏi nội dung ghi trong hợp đồng ủy quyền như thế nào? Mong được hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp của gia đình tôi. Xin chân thành cảm ơn!
Ðiều 109 Bộ luật Dân sự quy định về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của hộ gia đình như sau: - Các thành viên của hộ gia đình chiếm hữu và sử dụng tài sản chung của hộ theo phương thức thỏa thuận. - Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý. Vì thửa đất mang tên hộ gia đình mẹ bạn nên khi mẹ bạn chuyển nhượng một phần thửa đất đó phải được sự đồng ý của các thành viên trong gia đình (xác định các thành viên dựa vào sổ hộ khẩu gia đình tại thời điểm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Những thông tin bạn cung cấp không đủ để chúng tôi tư vấn, hướng dẫn cụ thể giúp bạn. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ đưa ra dưới đây một vài lưu ý để bạn có thể tham khảo và giải quyết trường hợp của gia đình mình. 1. Về việc ủy quyền của em bạn. Bạn có thể xem lại sổ hộ khẩu gia đình mẹ bạn để xác định: tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, em bạn có tên trong sổ hộ khẩu gia đình hay không. - Nếu tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ gia đình của mẹ bạn, em bạn không có tên trong sổ hộ khẩu gia đình mẹ bạn thì em bạn không phải là một trong các đồng chủ sử dụng thửa đất đó. Trong trường hợp này, mẹ bạn và các đồng chủ sử dụng tài sản chung hộ gia đình có quyền chuyển nhượng một phần thửa đất mà không cần sự đồng ý của em bạn và em bạn không cần làm hợp đồng ủy quyền nữa. - Nếu tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, em bạn có tên trong sổ hộ khẩu gia đình mẹ bạn thì em bạn cũng là một trong các đồng chủ sử dụng thửa đất đó. Em bạn có quyền cùng các đồng chủ sử dụng tài sản chung hộ gia đình tiến hành thủ tục chuyển nhượng theo quy định của pháp luật hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện việc chuyển nhượng đó. Mẫu ủy quyền: Bạn có thể tham khảo tại http://www.moj.gov.vn/huongdannv/Lists/TaiLieuNghiepVu/View_Detail.aspx?ItemId=155 hoặc tại bất kỳ tổ chức công chứng nào. Bạn lưu ý phần căn cứ ủy quyền phải nêu rõ thông tin về thửa đất chung của hộ gia đình (thửa đất, tờ bản đồ, địa chỉ, thửa đất...), thông tin về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (số hiệu, cơ quan cấp, ngày cấp...). Phần nội dung phải xác định rõ phạm vi ủy quyền, ví dụ như: Ủy quyền cho ... thay mặt và nhân danh tôi (là em bạn) thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật để chuyển nhượng một phần thửa đất. Em bạn có thể soạn thảo trước nội dung ủy quyền hoặc yêu cầu tổ chức công chứng chứng nhận hợp đồng đó soạn thảo. 2. Về trường hợp của bố bạn. Theo thông tin bạn cung cấp thì bố bạn đã mất không để lại di chúc nhưng bạn lại không nêu rõ bố bạn mất tại thời điểm nào, trước hay sau thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ gia đình. - Nếu bố bạn mất sau thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì: Bố bạn không phải là một trong các đồng chủ sử dụng thửa đất của hộ gia đình mẹ bạn; việc chuyển nhượng một phần thửa đất được tiến hành bình thường. - Nếu bố bạn mất trước thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bố bạn có thể là đồng chủ sử dụng thửa đất chung của hộ gia đình. Theo quy định tại Ðiều 735 về thừa kế quyền sử dụng đất được Nhà nước giao cho hộ gia đình: Hộ gia đình được Nhà nước giao đất nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để lại cho những người thừa kế theo quy định tại Phần thứ tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai. Như vậy, khi bố bạn mất, phần quyền sử dụng đất của bố bạn trong khối tài sản chung của hộ gia đình được chia cho các thừa kế theo pháp luật của bố bạn (xác định theo Điều 676 Bộ luật dân sự: Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết). Để chuyển nhượng một phần thửa đất chung của hộ gia đình, mẹ bạn phải tiến hành các bước sau: - Bước 1: Thực hiện khai nhận di sản thừa kế đối với phần quyền sử dụng đất là di sản do bố bạn để lại. - Bước 2: Sau khi hoàn thành thủ tục sang tên theo văn bản khai nhận/phân chia di sản thừa kế, chủ sử dụng thửa đất mới sẽ tiến hành chuyển nhượng một phần thửa đất theo quy định của pháp luật. Trên đây là một số vấn đề liên quan để bạn có thể tham khảo. Để thực hiện việc chuyển nhượng một phần thửa đất chung của hộ gia đình mình theo đúng quy định của pháp luật, bạn nên mang đầy đủ hồ sơ đến tổ chức công chứng trên địa bàn tỉnh, thành phố nơi có bất động sản để được tư vấn và hướng dẫn trực tiếp.
Cho em hỏi: Việc 02 cá nhân thực hiện cầm cố đất đai (có Giấy chứng nhận QSD đất, diện tích 2000m2 đất lúa, đất không có tranh chấp, QSD đất không bị kê biên,không nằm trong quy hoạch, giải tỏa) có được hay không? Trình tự, thủ tục như thế nào? Có cần đăng ký trích đo địa chính thửa đất không?
Đất đai không phải là tài sản cầm cố, mà chỉ là tài sản đem đi thế chấp. việc 2 cá nhân nhận thế chấp với nhau là trái với quy định của pháp luật, nên bạn sẽ không thực hiện được việc cầm cố và đăng ký bảo đảm theo quy định của pháp luật.
Bố e mất năm 1991 , năm đó e mới có dc 1tháng tuổi Bố e được  ông bà nội chia đất thổ cư của tổ tiên để lại trước khi bố mẹ e lấy nhau Bgay sau bố e mất chưa được 49ngày thì mẹ e bi bên nội đuổi đánh và đòi lại đất  đã chia cho bố e Vậy là mẹ e phải bế e  đi theo. đến hiện tại e đã 24tuổi lập gia đình Liệu giờ e quay về nội thì  e có quyền lợi gì từ tài sản ấy của bố e ko ạ Trước đây gia đình chỉ chia mồm thôi và ko có giấy tờ gì cả Ông nội e thì mất trước cả lúc bmẹ e lấy nhau .
Đối với phần đất bố bạn được chia đất bằng miệng thì rất khó để đòi lại vì không có chứng cứ gì chứng minh sự việc đó. Tuy nhiên, bạn là con ruột bố bạn, bố bạn mất trước bà nội bạn nên bạn sẽ được hưởng thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 677 Bộ luật dân sự 2005 về Thừa kế thế vị: "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống. Do vậy, bạn có quyền yêu cầu những người đang quản lý di sản của bà nội bạn chia cho bạn phần mà lẽ ra bố bạn còn sống sẽ được hưởng; nếu họ không đồng ý chia thì bạn có quyền khởi kiện ra Tòa để yêu cầu chia phần di sản thừa kế của bà nội bạn (còn phần di sản của ông nội bạn đã hết thời hiệu chia thừa kế từ rất lâu nên rất khó để đòi chia được)
Thưa luật sư, gia đình em gồm bà nội, bác gái, ba và bác trai. Do ngày 11/2/2014 vì bà em và bác gái không am hiểu luật pháp nên bác trai có hành vi lừa dối bà em để làm giấy chứng nhận quyền sở hữu đất chỉ đứng tên bác trai và bác gái, không có tên của ba em. Đến ngày hôm nay 6/1/2015 ba em mới biết sự việc trên và không đồng ý. Vậy thưa luật sư ba em có quyền khiếu nại để bổ sung tên của ba em vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không. Bởi bà em không biết chữ và bác gái em cũng đã lớn tuổi sức khoẻ đầu óc cũng không còn minh mẫn. Nay do ba em biết dược vụ việc thì bà em cũng đã chấp nhận việc bổ sung tên ba em vào. Vậy thưa luật sư gia đình em cần làm gì để giải quyết vấn đề trên và cần những thủ tục hành chính nào.
Gia đình em cần làm đơn khiếu nại về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gởi đến cơ quan đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để yêu cầu giải quyết việc điều chỉnh bổ sung tên các thành viên muốn đứng tên chung trong giấy chứng nhận này theo ý kiến thống nhất của gia đình nhé.
Em chào luật sư ạ, Em có câu hỏi nhờ luật sư tư vấn giúp em. Bố mẹ em xây nhà từ năm 2001, khi đó bố mẹ em ở cùng với ông bà nhưng xây nhà riêng để ở. Khi xây xong thì ông em mất, từ đó bà em ở cùng với bố mẹ em, năm 2011 bà em chuyển nhượng sổ đỏ cho bố em, nhưng do thủ tục bị sai nên mấy người con của bà em đã kiện đòi lại sổ đỏ. Giờ sổ đỏ là tên của ông nội em,nhưng nhà của bố mẹ lại nằm 1 phần trên mảnh đất đó, bây giờ bố mẹ em không có sổ đỏ, nếu bây giờ những người đó kiện ra tòa thì bố mẹ em có ảnh hưởng gì không ạ?
Bị ảnh hưởng, ít nhất là bố bạn phải theo vụ kiện. Về đất đai thì có thể phải chia theo pháp luật về thừa kế, khi đó xác định giá trị di sản của ông bạn rồi chia đều cho các đồng thừa kế (gồm bà của bạn, các con của ông). Theo thông tin bạn nêu có thể hiểu được trong trường hợp này bố bạn sẽ có phần thừa kế của mình và phần của bà (phần thừa kế từ di sản của ông cùng tài sản của bà trong khối tài sản chung với ông). Căn nhà đã xây trên cơ sở ông bà đồng ý nên bố bạn không vi phạm gì. Lưu ý: Nội dung trên là tư vấn trong trường hợp đất là tài sản chung của ông và bà. Tùy theo nguồn gốc đất và thỏa thuận giữa ông bà với bố (hoặc cả mẹ) của bạn mới có thể biết hướng giải quyết. Bạn nên cân nhắc sử dụng tư vấn trực tiếp nơi thuận tiện và bạn tin tưởng
Kính gửi Luật Sư! Mẹ tôi đứng tên quyền sử dụng miếng đất ruộng do bà ngoại tôi cho mẹ.Hiện nay mẹ tôi muốn sang nhượng miếng đất này thì được cán bộ UBND xã yêu cầu phải có chữ ký đồng ý của người con dâu thứ 6 của mẹ tôi (anh 6 tôi đã mất lâu rồi) mới được chuyển nhượng mặc dù người con dâu này có nhà riêng và không cùng hộ khẩu với mẹ tôi,các anh em còn lại trong gia đình thì UBND cho biết không cần ký,thậm chí tôi là con út ở cùng hộ khẩu với mẹ nhưng vẫn không cần ký tên. Xin luật sư tư vấn giúp tôi là người con dâu đó có quyền gì trong quan hệ này không và UBND xã làm vậy là đúng hay sai,và nếu sai thì mẹ tôi phải làm gì để có thể yêu cầu UBND làm giấy chuyển nhượng.Rất mong nhận được tư vấn sớm từ LS.Cám ơn LS Trân Trọng!
- Về nguồn gốc đất này do bà ngoại cho riêng mẹ bạn, đây là tài sản riêng khi đó mẹ bạn cho tặng/chuyển nhượng cho ai đó là quyền của mẹ bạn. Việc yêu cầu người co dâu thứ 6 trong gia đình ký giấy tờ liên quan là không đúng pháp luật. Theo tôi, theo quy định thì bạn và mẹ của bạn cứ ra công chứng để ký hợp đồng tặng cho/chuyển nhượng thửa đất này, sau đó nộp lên các cơ quan nhà nước nếu họ từ chối bạn có thể khiếu nại về những yêu cầu bất hợp lý và trái pháp luật này.
Mong các luật sư giúp đỡ! Khi còn sống, bố tôi có mua một mảnh đất từ năm 2001. Giấy chuyển quyền sử dụng đất được viết bằng giấy viết tay có chữ ký của chồng bà Thắm và người làm chứng thứ 3 là anh em của gia đình bà Thắm, không có xác nhận của chính quyền xã.     Nhưng đến năm 2004, bà Thắm không thừa nhận việc chồng bà chuyển quyền sử dụng mảnh đất đó cho bố tôi. Gia đình tôi đã xây tường dào xung quanh và trồng rau màu trên đó, thời gian tranh chấp cũng kéo dài từ đó đến nay.     Vừa rồi bên chính quyền xã (trong đó có người nhà của gia đình tôi) thông báo: Mảnh đất này là đất chuyển đổi, người đứng tên sở hữu là bà Thắm và bà Thắm chưa trả đất khoán cho mảnh đất này. ( Tức là để có đất chuyển đổi thì các xã viên phải trả hợp tác xã một mảnh đất khoán khác)     Vậy luật sư cho biết: Mẹ con tôi có được bảo vệ trước pháp luật về việc sở hữu mảnh đất này không. Và việc mẹ con tôi đề nghị hợp tác xã được trả mảnh đất khoán khác thay bà Thắm để được sở hữu mảnh đất này có được không.     Mong được sự giúp đỡ của luật sư.
Theo quy định của luật đất đai 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải lập hợp đồng công chứng hoặc có chứng thực của UBND thì mới coi là hợp pháp. Mảnh đất chồng bà Thắm bán cho bố bạn sau này xác định thuộc quyền sử dụng của bà Thắm vì thế trong quá trình làm hợp đồng chuyển nhượng không có sự đồng ý và ký tên của bà Thắm thì hợp đồng đó bị coi là vô hiệu. Theo quy định của pháp luật một trong hai bên có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu, khi hợp đồng vô hiệu thì các bên trao trả lại những gì đã nhận của nhau, bên nào gây thiệt hại thì bên đó phải bồi thường cho bên kia. Vì thế về căn cứ pháp luật mà nói bà Thắm mới là chủ sử dụng mảnh đất bà ấy có quyền đòi lại quyền sử dụng mảnh đất đó, tuy nhiên mẹ bạn cũng có quyền đòi lại số tiền và đã chuyển nhượng và các yêu cầu về tài sản, giá trị tại sản, hoa lợi lợi tức trên mảnh đất này. Việc mẹ bạn làm đơn kiến nghị HTX trả thay bà Thắm mảnh đất khác để hưởng quyền sử dụng mảnh đất này sẽ không có cơ sở để chấp nhận. Trân trọng!
Ba mẹ tôi có 7 người con, ba tôi đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nay ba tôi đã chết .Hiện nay 6 chị em tôi muốn chuyển quyền sử dụng đất cho mẹ tôi đứng tên,nhưng khi làm hồ sơ phòng công chứng yêu cầu kê khai các người con của mẹ và tất cả phải đến kí tên, Do khó khăn trong việc đến kí tên( vì có 1 người con đã 8 năm không liên lạc gì đến gia đình) nên mẹ và 6 chị em còn lại còn lại đều thống nhất không ghi tên người con kia vào danh sách những người con của mẹ, Cho tôi hỏi giả sử chuyển được quyền sử dụng đất cho mẹ tôi đứng tên sau này mẹ tôi chết đi (mẹ tôi sống 1 mình trên mảnh đất đó) nếu người con kia có về và đồng ý cũng như không có khiếu nại gì về việc trước kia và chị em còn lại cũng đồng ý nếu người con kia muốn sống trên mảnh đất đó . Xin luật sư cho biết như vậy có được không,mảnh đất đó chị em tôi không bán chỉ để làm nhà thờ mà thôi. Xin cám ơn luật sư.
Bố bạn mất không để lại di chúc nay các bạn muốn sang tên cho mẹ thì yêu cầu của công chứng viên như vậy là phù hợp với quy định của pháp luật. Đất đai của bố mẹ bạn tạo dựng, có được hình thành trong thời kỳ hôn nhân do đó 50% quyền sử dụng đất của bố bạn chia đều cho các đồng thừa kế hàng thứ nhất trong đó mẹ bạn cũng có phần bằng các con, người con mà 8 năm không liên lạc gì với gia đình vẫn có phần, nếu trong vòng 10 năm kể từ ngày người này biết việc bố mất mà không yêu cầu chia thừa kế thì thời gian sau đó không có quyền yêu cầu chia nữa. Nếu trong vòng 10 năm người này yêu cầu chia thì sẽ được chia 1/8 trên 50% quyền sử dụng đất của bố bạn. Có cho người này ở trên mảnh đất hay không phụ thuộc vào các điều kiện về mặt thời gian như đã phân tích ở trên.
Tháng 5/2010, thông qua giới thiệu của cán bộ địa chính xã, tôi có bán cho chị A 1 lô đất! Hợp đồng mua bán, hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất tôi ký tên và tin tưởng giao cho cán bộ địa chính xã làm. Tôi nhận trước 80% số tiền mua bán, phần còn lại sẽ nhận nốt khi chị A được nhận sổ đỏ. Tuy nhiên, quá trình làm thủ tục chuyển nhượng diễn ra rất lâu, đến tháng 12/2010 tôi liên hệ với anh cán bộ địa chính và chị A dể nhận nốt số tiền còn lại. Họ yêu cầu tôi ký tên vào giấy nhận tiền, nhưng đó là giấy trắng, anh cán bộ địa chính nói nội dung anh ta sẽ viết sau. Do cần tiền gấp nên tôi đã đồng ý. Nhưng khi nhận lại sổ đỏ của mình tôi mới biết, lô đất trên ko đc chuyển nhượng cho chị A như trong giấy mua bán mà được chuyển cho anh B. Còn tờ giấy tôi ký tên hồi tháng 12/2010 đã được viết thành giấy mua bán lô đất đó với anh B. Anh B và cán bộ địa chính trên có mối quan hệ bạn bè. Tôi cũng xin nói thêm là anh B đã muốn mua lô đất đó của tôi từ rất lâu nhưng tôi không đồng ý bán cho anh ta. Vì ko có quan hệ mua bán, cũng như nhận tiền của anh B nên khi anh B đòi quyền sử dụng lô đất trên tôi đã ko đồng ý, anh B đã làm đơn khởi kiện đòi quyền sử dụng đất. Vậy tôi xin luật sư giải đáp cho tôi một số vấn đề sau: Thứ nhất, giấy mua bán giữa tôi và anh B do cán bộ địa chính là có giá trị ko? Thứ hai, trong vụ kiện này tôi có cơ sở pháp lý nào ko? Tôi kính mong luật sư giúp đỡ! Tôi xin chân thành cảm ơn!
1- Hợp đồng bạn ký (dù là tên người mua là B) thì vẫn phải được công chứng, chứng thực đúng pháp luật mới có hiệu lực. Bạn không đến công chứng, chứng thực thì việc đó không thể hoàn thiện được và không thể chuyển tên sang cho B được. Tuy nhiên, các giấy tờ bạn ký vẫn có giá trị là chứng cứ trong vụ án này. 2- Bạn chứng minh được câu chuyện bạn kể (không có ý định bán cho B) thì đó là cơ sở pháp lý. Để chứng minh điều này, bạn phải có tài liệu, chứng cứ cụ thể. Ngoài ra, cơ sở pháp lý đối với từng mục đích, yêu cầu khác nhau thường là không giống nhau, bạn lưu ý điều này.
Chào anh chị! Bố em có mua 01 thửa đất có diện tích 110 m2 bìa đỏ chính chủ (thuộc đất vườn tách bìa 292m2). Định giá nhà nước của thửa đất là 2 triệu/m2. Bố em hiện là thương binh hạng 4/4 có được giảm tiền thuế không ạ, Nhờ anh chị tính giúp các khoản bố em phải nộp khi là thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với ạ. Xin chân thành cảm ơn!
Theo quy định tại điều 4 Nghị định số 45/2011/NĐ-CP thì chỉ có các rtường hợp được quy định như sau là không phải nộp lệ phí trước bạ.Bạn vui lòng tự tham khảo để biết mình có thuộc trưng hợp nào không nhé: Các trường hợp không phải nộp lệ phí trước bạ: 1. Nhà, đất là trụ sở của cơ quan Đại diện ngoại giao, cơ quan Lãnh sự, cơ quan Đại diện của tổ chức quốc tế thuộc hệ thống Liên hợp quốc và nhà ở của người đứng đầu cơ quan Đại diện ngoại giao, cơ quan Lãnh sự, cơ quan Đại diện của tổ chức quốc tế thuộc hệ thống Liên hợp quốc tại Việt Nam. 2. Tài sản (trừ nhà, đất) của tổ chức, cá nhân nước ngoài sau đây: a) Cơ quan Đại diện ngoại giao, cơ quan Lãnh sự, cơ quan Đại điện của tổ chức quốc tế Liên hợp quốc; b) Viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự, nhân viên hành chính kỹ thuật của cơ quan Đại diện ngoại giao, cơ quan Lãnh sự, thành viên cơ quan Đại diện của tổ chức quốc tế thuộc hệ thống Liên hợp quốc và thành viên của gia đình họ không phải là công dân Việt Nam hoặc không thường trú tại Việt Nam được Bộ Ngoại giao Việt Nam cấp chứng minh thư ngoại giao hoặc chứng minh thư công vụ; c) Tổ chức, cá nhân nước ngoài không thuộc đối tượng quy định tại điểm a, b khoản này, nhưng được miễn hoặc không phải nộp lệ phí trước bạ theo các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. 3. Đất được Nhà nước giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng vào các mục đích sau đây: a) Sử dụng vào mục đích công cộng theo quy định của pháp luật về đất đai; b) Thăm dò, khai thác khoáng sản; nghiên cứu khoa học theo giấy phép hoặc xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; c) Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê, không phân biệt đất trong hay ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất; đầu tư xây dựng nhà để kinh doanh. Các trường hợp này nếu chuyển nhượng thì tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng phải nộp lệ phí trước bạ; nếu cho thuê hoặc tự sử dụng thì tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất phải nộp lệ phí trước bạ. 4. Đất được Nhà nước giao hoặc công nhận sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm muối. 5. Đất nông nghiệp chuyển đổi quyền sử dụng giữa các hộ gia đình, cá nhân theo chủ trương chung về dồn điền đổi thửa. 6. Đất nông nghiệp do hộ gia đình, cá nhân tự khai hoang được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 7. Đất thuê của Nhà nước hoặc thuê của tổ chức, cá nhân đã có quyền sử dụng đất hợp pháp. 8. Nhà, đất sử dụng vào mục đích cộng đồng của các tổ chức tôn giáo, cơ sở tín ngưỡng được Nhà nước công nhận hoặc được phép hoạt động. 9. Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa. 10. Nhà, đất nhận thừa kế hoặc là quà tặng giữa: vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau nay được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu. 11. Nhà ở của hộ gia đình, cá nhân tạo lập thông qua hình thức phát triển nhà ở riêng lẻ. 12. Tài sản cho thuê tài chính được chuyển quyền sở hữu cho bên thuê khi kết thúc thời hạn thuê thông qua việc nhượng, bán tài sản cho thuê thì bên thuê không phải nộp lệ phí trước bạ; trường hợp công ty cho thuê tài chính mua tài sản của đơn vị có tài sản đã nộp lệ phí trước bạ sau đó cho chính đơn vị bán tài sản thuê lại thì công ty cho thuê tài chính không phải nộp lệ phí trước bạ. 13. Nhà, đất, tài sản đặc biệt, tài sản chuyên dùng, tài sản phục vụ công tác quản lý chuyên dùng phục vụ quốc phòng, an ninh. 14. Nhà, đất thuộc tài sản nhà nước dùng làm trụ sở cơ quan của cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. 15. Nhà, đất được bồi thường (kể cả nhà, đất mua bằng tiền được bồi thường, hỗ trợ) khi Nhà nước thu hồi nhà, đất theo quy định của pháp luật. 16. Tài sản của tổ chức, cá nhân đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng khi đăng ký lại quyền sở hữu, sử dụng không phải nộp lệ phí trước bạ trong những trường hợp sau đây: a) Tài sản đã được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng nay đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng mới mà không thay đổi chủ sở hữu tài sản; b) Tài sản của doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa thành sở hữu công ty cổ phần hoặc các hình thức sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước khác theo quy định của pháp luật; c) Tài sản đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng của hộ gia đình khi phân chia tài sản đó cho các thành viên hộ gia đình đăng ký lại; d) Tài sản của tổ chức, cá nhân đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng phải đăng ký lại quyền sở hữu, sử dụng do giấy chứng nhận bị mất, rách nát, hư hỏng; đ) Trường hợp khi cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có phát sinh chênh lệch diện tích đất tăng thêm nhưng ranh giới của thửa đất không thay đổi thì không phải nộp lệ phí trước bạ đối với phần diện tích đất tăng thêm. 17. Tài sản của tổ chức, cá nhân đã nộp lệ phí trước bạ (trừ trường hợp không phải nộp hoặc được miễn nộp lệ phí trước bạ) sau đó chuyển cho tổ chức, cá nhân khác đăng ký quyền sở hữu, sử dụng không phải nộp lệ phí trước bạ trong những trường hợp sau đây: a) Tổ chức, cá nhân, xã viên hợp tác xã đem tài sản của mình góp vốn vào doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, hợp tác xã hoặc khi doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, hợp tác xã giải thể hoặc phân chia hoặc rút vốn cho tổ chức, cá nhân thành viên tài sản mà tổ chức, cá nhân thành viên đã góp trước đây; b) Tài sản của doanh nghiệp điều động cho các đơn vị thành viên hoặc doanh nghiệp điều động tài sản giữa các đơn vị thành viên thuộc doanh nghiệp theo hình thức ghi tăng, ghi giảm vốn hoặc cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp điều động tài sản trong nội bộ một cơ quan, đơn vị dự toán theo quyết định của cấp có thẩm quyền. 18. Tài sản của tổ chức, cá nhân đã nộp lệ phí trước bạ được chia hay góp do chia, tách, cổ phần hóa, hợp nhất, sáp nhập, đổi tên tổ chức theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền. 19. Tài sản của tổ chức, cá nhân đã nộp lệ phí trước bạ chuyển đến địa phương nơi sử dụng mà không thay đổi chủ sở hữu. 20. Nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, nhà được hỗ trợ mang tính chất nhân đạo, kể cả đất kèm theo nhà được đăng ký sở hữu, sử dụng tên người được tặng. 21. Xe chuyên dùng: xe cứu hỏa, xe cứu thương, xe cứu hộ, xe chở rác, xe phun tưới, xe quét đường, xe chiếu chụp X-quang; xe chuyên dùng cho thương binh, bệnh binh, người tàn tật, đăng ký quyền sở hữu tên thương binh, bệnh binh, người tàn tật. 22. Tàu bay sử dụng cho mục đích kinh doanh vận chuyển hàng hóa, hành khách. 23. Tàu, thuyền đánh bắt thủy, hải sản. 24. Vỏ, tổng thành khung, tổng thành máy của tài sản quy định tại khoản 8 Điều 2 Nghị định này được thay thế mà phải đăng ký lại trong thời hạn bảo hành. 25. Nhà xưởng của cơ sở sản xuất, kinh doanh. 26. Tài sản là hàng hóa kinh doanh của các tổ chức, cá nhân đăng ký hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật mà không đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Tôi muốn chuyển quyền sử dụng đất cho mẹ tôi và sau khi mẹ tôi chết thì tài sản đó phải buộc giao lại cho tôi thì làm như thế nào?
Nếu bạn muốn chuyển quyền sử dụng đất cho mẹ bạn và sau khi mẹ bạn mất, tài sản bắt buộc phải sang tên lại cho bạn thì bạn có thể thực hiện các thủ tục sau: Bước 1: Thực hiện thủ tục tặng cho/chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bạn sang cho mẹ bạn. Bước 2: Sau đó, mẹ bạn lập di chúc để lại quyền sử dụng đất nêu trên cho bạn. Trình tự, thủ tục cụ thể như sau: 1. Thủ tục tặng cho/chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bạn sang cho mẹ bạn. a. Công chứng hợp đồng tặng cho/chuyển nhượng quyền sử dụng đất * Chủ thể tiến hành: Bạn và mẹ bạn * Cơ quan tiến hành: Bất kỳ tổ chức công chứng nào trên địa bàn tỉnh, thành phố nơi có bất động sản. - Bộ hồ sơ yêu cầu công chứng gồm: + Phiếu yêu cầu công chứng, trong đó có thông tin về họ tên, địa chỉ người yêu cầu công chứng, nội dung cần công chứng, danh mục giấy tờ gửi kèm theo; tên tổ chức hành nghề công chứng, họ tên người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng, thời điểm tiếp nhận hồ sơ; + Dự thảo hợp đồng, giao dịch; + Bản sao giấy tờ tùy thân của người yêu cầu công chứng; + Bản sao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; + Bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải có. * Thủ tục: Thực hiện theo hướng dẫn tại Điều 40, 41 Luật công chứng. b. Đăng ký sang tên quyền sử dụng đất (theo quy định tại Điều 79 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/4/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai 2013). * Hồ sơ: - Chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu của hai bên; - Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; - Hợp đồng tặng cho/ chuyển nhượng quyền sử dụng đất. - Các giấy tờ khác mà pháp luật quy định phải có. Văn phòng đăng ký đất đai sẽ kiểm tra hồ sơ, nếu đủ điều kiện thực hiện các quyền theo quy định thì tiến hành thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 2. Lập di chúc Sau khi cơ quan nhà đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên mẹ bạn, mẹ bạn lập di chúc để định đoạt tài sản đó cho bạn. Khi di chúc có hiệu lực, bạn tiến hành thủ tục khai nhận di sản theo quy định. Mẹ bạn có thể lựa chọn một trong các hình thức của di chúc: - Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng; - Di chúc bằng văn bản có người làm chứng; - Di chúc bằng văn bản có công chứng; - Di chúc bằng văn bản có chứng thực. Nội dung của di chúc bằng văn bản phải ghi rõ: + Ngày, tháng, năm lập di chúc; + Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; + Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; + Di sản để lại và nơi có di sản; + Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Lưu ý: (i) Vì bạn mong muốn rằng bạn sẽ chuyển quyền sử dụng đất cho mẹ bạn và sau khi mẹ bạn mất, tài sản bắt buộc phải sang tên lại cho bạn nên phương án nêu trên là phương án tốt nhất cho bạn. Tuy nhiên, khi di chúc của mẹ bạn có hiệu lực, ngoài bạn ra, còn có thể có những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Điều 669 Bộ luật dân sự quy định: Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Ðiều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Ðiều 643 của Bộ luật này: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Con đã thành niên mà không có khả năng lao động. Nếu thuộc trường hợp trên , cho dù mẹ bạn để lại di chúc cho một mình bạn thì những người nêu trên cũng sẽ được hưởng di sản do mẹ bạn để lại. (ii) Nếu mục đích của bạn là để chứng minh quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bạn, không liên quan đến vợ/chồng của bạn thì bạn có thể thực hiện theo phương án: Sau khi làm thủ tục tặng cho/chuyển nhượng từ bạn sang mẹ bạn và mẹ bạn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như bước 1 nêu trên thì mẹ bạn sẽ thực hiện hợp đồng tặng cho chính thửa đất đó cho bạn.
Năm 2009, sau khi kết hôn, hai vợ chồng tôi được cấp một mảnh đất. Khi làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất thì vợ tôi chỉ đăng ký tên cô ấy trong khi tiền lấy đất và làm các thủ tục là do tôi bỏ ra. Năm 2011, sau khi được cấp sổ đỏ, vợ tôi không cho tôi xem vì vậy vợ chồng tôi xảy ra cãi vã và bỏ về nhà mẹ sống. Trong thời gian này, vợ tôi đã bán mảnh đất này cho người khác (tôi không hề biết). Sau một năm ly thân, năm 2012, vợ tôi chủ động ly hôn và thống nhất với nhau sẽ cho con mảnh đất trên. Sau khi ly hôn, tôi mới biết về việc vợ tôi đã bán đất từ năm 2011 chứ không phải để lại cho con như đã thống nhất khi ly dị (tôi đã xác nhận việc bán đất tại phòng Tài nguyên môi trường huyện). Tôi muốn lấy lại đất thì có được không?
Theo nội dung sự việc thì mặc dù giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ đứng tên vợ anh, tuy nhiên tài sản này được hình thành trong thời kỳ hôn nhân nên đây là tài sản chung của vợ chồng (khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Đồng thời, Luật cũng quy định trong trường hợp thực hiện giao dịch quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng nhưng trên giấy chứng nhận chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì phải tuân thủ quy định về đại diện giữa vợ và chồng khi thực hiện giao dịch. Mặt khác, khoản 2 Điều 35 về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung quy định trong trường hợp định đoạt tài sản chung là bất động sản thì phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng. Do đó, trong trường hợp vợ anh muốn giao dịch quyền sử dụng đất thì phải có văn bản thỏa thuận của hai vợ chồng. Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 24 Luật này, vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng. Tuy nhiên, như anh trình bày thì vợ của anh đã tự mình thực hiện giao dịch chuyển quyền sử dụng đất mà không được sự đồng ý của anh. Vì vậy, hành vi trên đã vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 26 về đại diện giữa vợ và chồng trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng. Theo quy định thì giao dịch đó vô hiệu. Cùng với đó, theo Điều 13 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP thì trong trường hợp vợ hoặc chồng định đoạt tài sản chung vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 35 của Luật Hôn nhân và gia đình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu. Do đó, anh có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch chuyển quyền sử dụng đất giữa vợ anh với người thứ ba mà chưa có sự thỏa thuận giữa hai vợ chồng là giao dịch vô hiệu. Theo quy định tại Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu như sau: “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”.
Nhận chuyển quyền sử dụng đất là gì?
Nhận chuyển quyền sử dụng đất là Việc xác lập quyền sử dụng đất do được người khác chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật thông qua các hình thứcchuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Tôi được bố mẹ đẻ của tôi cho tiền để tôi mua 1 mảnh đất hoặc 1 ngôi nhà.  Xin cho tôi được hỏi: 1/ Tôi muốn được đứng tên 1 mình trên sổ đỏ (Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất)  tức là không có tên vợ tôi thì có được hay không? Nếu được thì phải làm những thủ tục gì? 2/ Trường hợp vẫn phải bắt buộc có tên cả 2 vợ chồng, mà hiện vợ tôi đang đi lao động ở nước ngoài thì cần phải làm như thế nào?
Hiện tại theo quy định tại khoản 4, Điều 98, Luật Đất đai năm 2013 khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nếu là tài sản chung của vợ chồng thì bắt buộc trên Giấy chứng nhận phải ghi rõ đầy đủ họ tên của vợ, họ tên của chồng trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận riêng. Trường hợp này bạn nêu là bạn được bố mẹ cho tiền để mua nhà hoặc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nếu bạn muốn đưa thửa đất hoặc căn nhà vào khối tài sản chung của hai vợ chồng nếu không có thỏa thuận khác thì trên giấy chứng nhận phải ghi đầy đủ tên của cả hai vợ chồng. Bạn cũng có thể được đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đứng tên trên giấy chứng nhận chỉ có tên của mình bạn nhưng phải đòi hỏi thông tin hồ sơ về tài sản không có sự liên quan tới vợ bạn. Nếu có liên quan tới vợ bạn thì bắt buộc cả hai vợ chồng bạn đều phải có tên trên giấy chứng nhận mới hợp pháp. Trường hợp đăng ký tên của cả hai vợ chồng thì vợ bạn phải về nước để thực hiện việc ký kết các văn bản, hồ sơ khi thực hiện mua nhà hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Luật Sư cho Tôi hỏi: gia đình tôi co 500m2 đất ở và đất vườn, vậy gia đình muốn tách một phần đất 150m2 thành một thửa mới rồi chuyển quền sử dụng thửa đất này chon anh trai đứng tên quyền sử dụng? Vậy tôi cân những giấy tờ gì? Và nộp ở đâu?
Anh có thể làm hợp đồng chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất cho anh trai, sau đó làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dựng đất đối với diện tích đất đã chuyển nhượng cho anh trai mình. Hồ sơ gồm: a) Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận; b) Một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai (nếu có) -> Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất c) Bản sao các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai theo quy định của pháp luật (nếu có).
Tôi đã lập gia đình, nay bố mẹ đẻ tôi có 1 miếng đất muốn chuyển quyền sử dụng đất cho riêng tên tôi vậy có được không a,( hay phải co cả tên chồng tôi trong sổ đỏ đất)
Được bạn a, bạn có thể làm hợp đồng tặng cho riêng theo đó Bố mẹ bạn sẽ tặng cho riêng bạn quyền sử dụng đất này và đương nhiên đây là tài sản riêng của bạn có trong thời kỳ hôn nhân. Luật Hôn nhân và Gia đình quy định Tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân có nguồn gốc là là tài sản được tặng cho riêng.
Gia đình em có 11 anh em, em là con út. Ba em mất lâu rồi(không có di chúc), giấy tờ đất vẫn do ba em đứng tên. Các anh em của em đều tách hộ khẩu ra riêng hết rồi. Hộ khẩu chỉ còn mẹ và em. Giờ em muốn chuyển quyền sử dụng đất từ ba sang cho em đứng tên (mẹ em đã đồng ý). Vậy chuyển từ ba sang mẹ em xong rồi chuyển qua em. Hay chuyển trực tiếp từ ba qua cho em. Cách nào tốt nhất, mà ko cần chữ ký của 11 anh em.
Về diện tích đất như bạn đã trình bày la do bố bạn đứng tên nhưng đó là đứng tên riêng một mình bố bạn hay bố bạn là người đại diện đứng tên. Nguồn gốc đất của bố bạn có từ khi nào ? Với trường hợp này nếu bạn muốn sang tên quyền sử dụng đất cho mình thì cần phải có sư đồng ý của các đồng sở hữu đất. Nếu là đất của riêng bố bạn thì toàn bộ phần đất đó sẽ được chia cho các đồng thừa kế. Nếu là đất thuộc tài sản chung vợ chồng thì nếu có yêu cầu chia di sản thừa kế mẹ bạn sẽ được 1/2 của khối tài sản chung. 1/2 còn lại sẽ được chia cho các đồng thừa kế.
Xin luật sư và những người bảo vệ công lý giúp đỡ: Chị gái tôi có mượn sổ đỏ của gia đình nhà tôi mang đi cầm cố vay mượn và mẹ tôi đã cho mượn và ký vào giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất, sổ đỏ là tài sản chung của cả gia đình tôi trong đó có bố mẹ tôi và các anh chị em tôi, nhưng quyền sử dụng đất đó lại đứng tên 1 mình mẹ tôi. Các  thành viên trong gia đình thì chưa được biết và chưa được ký vào bất kỳ giấy tờ nào. thế mà bây giờ quyền sử dụng đất nhà tôi lại mang tên người khác. hỏi văn phòng nhà đất  thì họ nói là chuyển nhượng theo đúng pháp luật vì quyền sử dụng mang tên của 1 mình mẹ tôi. Xin cầu mong luật sư giúp đỡ.
Theo qui định của pháp luật thì người tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ được toàn quyền quyết định trong việc cầm cố, thế chấp, tặng cho hay chuyển nhượng mảnh đất đó mà không cần phải có sự đồng ý của các thành viên trong gia đình. Do vậy, việc mẹ bạn ký tên chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên là hoàn toàn đúng qui định của pháp luật. Nếu bạn có căn cứ cho rằng mảnh đất đó là tài sản chung của cả gia đình và mẹ bạn đã chuyển nhượng trái ý muốn của các thành viên trong gia đình thì bạn có quyền khởi kiện ra tòa để yêu cầu hủy giao dịch chuyển nhượng của mẹ bạn. Tuy nhiên khả năng này là rất khó xảy ra.
1- Cơ quan tôi thường nhận công văn của cơ quan thi hành án dân sự về việc ngăn chặn việc chuyển quyền sử dụng đất của các bị đơn và nguyên đơn khi có quyết định của tòa án, mà nội dung bản án chỉ tuyên bị đơn có trách nhiệm trả tiền cho nguyên đơn, không có liên quan gì đến QSD đất. 2- Cơ quan tôi thường nhận đơn ngăn chặn việc chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân với cá nhân với nhau 3- Cơ quan tôi có cung cấp thông tin cho cơ quan thi hành án để thi hành án về người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là Bùi Quang Bình nhưng thực tế ông Bùi Quang Bình đã chuyển nhượng cho ông Trần Hoài Phong và đã chỉnh lý trang 4 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.(Do hồ sơ địa chính như sổ địa chính, sổ mục kê không có chỉnh ) nên khi cung cấp thông tin cho cơ quan thi hành án vẫn còn tên Bùi Quang Bình.  Xin hỏi: 1/ Cơ quan thi hành án gửi thông báo cho cơ quan tôi ngăn chặn việc chuyển quyền như vậy có đúng không? và thời gian bao lâu mới kết thúc việc ngăn chặn, nếu kéo dài thì sao? 2/ Đơn ngăn chặn của cá nhân như vậy cơ quan chúng tôi có được tiếp tục thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất không? 3/ Xin hỏi cơ quan tôi cung cấp thông tin có sai sót như vậy có chịu trách nhiệm bồi thường không?
1. Theo quy định pháp luật thì cơ quan thi hành án có quyền ra lệnh, quyết định để ngăn chặn việc tẩu tán tài sản. Nếu cơ quan thi hành án có quyết định về việc ngăn chặn thì UBND và Phòng TNMT phải chấp hành quyết định, lệnh kê biên, phong tỏa.. đó. Nếu cơ quan thi hành án chỉ gửi thông báo, yêu cầu phối hợp thì phòng TNMT có thể không thực hiện thủ tục đăng ký, hoặc có thể vẫn đăng ký sang tên bình thường. Theo quy định pháp luật thì giao dịch về quyền sử dụng đất mà nhằm trốn tránh nghĩa vụ dân sự, tẩu tán tài sản (vi phạm về mục đích trong giao dịch) thì giao dịch đó vô hiệu. Nếu cơ quan hành chính có căn cứ xác định giao dịch đó nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ dân sự... nghĩa là mục đích trái pháp luật, đạo đức xã hội thì có quyền từ chối thực hiện thủ tục đăng ký chứ không cần phải có văn bản từ cơ quan thi hành án. Nếu bên chuyển nhượng có nhiều tài sản, các bản án không tuyên, hạn chế giao dịch về tài sản đó thì không được coi là tẩu tán tài sản. Nếu bên chuyển nhượng chỉ có một tài sản duy nhất mà đang phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo một bản án, quyết định đã có hiệu lực mà cố tình chuyển dịch khối tài sản duy nhất đó thì mới có thể xem xét về ý chí trong giao dịch đó có phải là nhằm trốn tránh nghĩa vụ không... 2. Nếu cơ quan thi hành án không cơ quyết định mà chỉ có kiến nghị, đề nghị hoặc công dân có đơn thư đề nghị... không bắt buộc phải dừng việc đăng ký, sang tên. Nếu trong quá trình giải quyết hồ sơ mà thấy hồ sơ đẩy đủ, nội dung, hình thức hợp đồng phù hợp với quy định pháp luật (không bị hạn chế bởi quy định pháp luật) thì việc đăng ký, sang tên vẫn tiến hành bình thường. Nếu không có căn cứ chứng minh về việc giao dịch đó là trái pháp luật, đạo đức xã hội... mà phòng TNMT không thực hiện thủ tục đăng ký sang tên thì hành vi đó là vi phạm quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu, cản trở việc thực hiện quyền sở hữu tài sản và chủ sở hữu tài sản có thể khởi kiện theo thủ tục tố tụng hành chính. 3. Nếu cơ quan bạn cung cấp thông tin không chính xác thì có thể có văn bản đính chính lại thông tin đó. Nếu việc cung cấp thông tin không chính xác là nguyên nhân chính dẫn đến thiệt hại đến tài sản của cơ quan, cá nhân, tổ chức thì mới phải bồi thường.
Trường hợp của em là , em sống với 2 bà ( em của ông nội em) từ nhỏ, 2 bà đều không có con cái và ở dạng neo đơn, nay bà em muốn chuyển quyền sử dụng đất lại cho em để cho tiện việc hương hỏa sau này, nhưng do tuy em ở từ nhỏ đến lớn nhưng không có đăng ký hộ khẩu ở nhà 2 bà em, mà đăng ký ở nhà em (do nhà em vẫn ở gần đó).  Vậy nên em xin hỏi luật sư thủ tục để làm việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong trường hợp của em.
Trường hợp này 2 bà bạn hoàn toàn có thể làm thủ tục tặng cho hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bạn mà không cần bạn phải đăng ký hộ khẩu thường trú tại đó bạn nhé!
Bố mẹ tôi có 4 người con gồm tôi và 3 chị gái của tôi. Mẹ tôi mới mất được 3 năm. Hiện nay gia đình tôi có mảnh đất do mẹ tôi đứng tên trong sổ đỏ, nay tôi muốn chuyển quyền sử dụng mảnh đất đó cho bố tôi nhưng chị cả của tôi không đông ý. Vậy tôi xin hỏi luật sư về trường hợp cua gia đình tôi thì giải quyết như thế nào?
Di sản thửa kế của mẹ bạn để lại là một phần quyền sử dụng đất như bạn đã nêu. Như bạn nói tôi hiểu mẹ bạn chết không để lại di chúc do đó di sản sẽ được chi theo luật mà chị bạn là người có quyền tài sản ở đó. Về nguyên tắc nếu gia đình bạn không tự thỏa thuận được việc phân chia di sản thì có thể khởi kiện đến tòa án để nhờ tòa án phân chia di sản. Việc không đồng ý thỏa thuận cũng là quyền của chị bạn, tuy nhiên bạn và bố bạn lại có quyền đề nghị tòa án chia khối di sản này, ở đây không có việc tranh chấp hay vi phạm gì của nhau mà đơn giản chỉ là không tự thống nhất được thì đề nghị tòa án chia theo luật cho phù hợp.
Xin chào LS! Hiện tại bố mẹ tôi có một mảnh đất trên giấy tờ mang tên bố mẹ tôi, nhưng trước đó bố tôi đã đổi lấy một mảnh đất khác chỉ bằng miệng không có giấy tờ. Bây giờ mảnh đất đó được vào diện đền bù, chính quyền địa phương liên hệ găp chính chủ mới đền bù được. Xin hỏi luật sư trong trường hợp này chúng tôi có được đền bù hay không a? Nếu được thì phải chia tiền đền bù như thế nào? Xin cảm ơn!
Ở đây, bạn không nói rõ mảnh đất gia đình bạn sở hữu hiện nay là mảnh đất nào, GCNQSDĐ ghi tên ai, và gia đình bạn đã sử dụng từ năm nào, có tranh chấp với chủ sở hữu hay không... cho nên không thể tư vấn cụ thể. Bạn có thể tham khảo Nghị định 97/2004/NĐ-CP để biết trường hợp của gia đình mình có thuộc diện được hưởng đền bù hay không: Điều 8. Điều kiện để được bồi thường đất Người bị Nhà nước thu hồi đất, có một trong các điều kiện sau đây thì được bồi thường: 1. Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. 2. Có quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai. 3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là ủy ban nhân dân cấp xã) xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây: a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính; c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng, cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất; d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở, mua nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật; e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất. 4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 3 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến thời điểm có quyết định thu hồi đất chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp. 5. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp. 6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều này, nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất đó không có tranh chấp. 7. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành. 8. Hộ gia đình cá nhân sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến thời điểm có quyết định thu hồi đất, mà tại thời điểm sử dụng không vi phạm quy hoạch; không vi phạm hành lang bảo vệ các công trình, được cấp có thẩm quyền phê duyệt đã công bố công khai, cắm mốc; không phải là đất lấn chiếm trái phép và được ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận đất đó không có tranh chấp. 9. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà trước đây Nhà nước đã có quyết định quản lý trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước, nhưng trong thực tế Nhà nước chưa quản lý, mà hộ gia đình, cá nhân đó vẫn sử dụng. 10. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, đền, chùa, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp. 11. Tổ chức sử dụng đất trong các trường hợp sau đây: a) Đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã nộp không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; b) Đất nhận chuyển nhượng của người sử dụng đất hợp pháp mà tiền trả cho việc chuyển nhượng không có nguồn từ ngân sách nhà nước; c) Đất sử dụng có nguồn gốc hợp pháp từ hộ gia đình, cá nhân.
Bố mẹ tôi sinh ra được 8 người con đẻ và 1 người con nuôi. Khi còn sống bố mẹ tôi có khoảng 2500m2 đất, sử dụng từ trước năm 1950.   Đến năm 2005 bố mẹ tôi có di chúc cho tôi và con của anh cả tôi dưới sự chứng kiến của bố mẹ tôi, có đại diện họ nội họ ngoại nhưng thiếu 3 người con ( 2 con đẻ và 1 con nuôi) thì bản di chúc đó có hợp pháp không? Tôi muốn toàn bộ 2500m2 đất đó được chia đều tất cả cho 9 anh chị em có được không? Và phải làm thế nào vơi bản di chúc đó bố mẹ tôi đã mất năm 2010 Xin cảm ơn ông!!!
Trước hết nhà nước công nhận và bảo vệ quyền của người sử dụng đất hợp pháp là quyền quản lý, sử dụng, định đoạt bao gồm chuyển nhượng, cho thuê, lập di chúc ...... Do đó khi lập di chúc không nhất thiết phải có mặt mọi người trong gia đình, chỉ cần người lập di chúc hoàn toàn minh mẫn, không bị ai ép buộc, đe dọa và hình thức của di chúc phù hợp với quy định pháp luật sẽ được pháp luật bảo vệ. Trường hợp ông/bà và người được đồng thừa kế theo di chúc không muốn thực hiện đúng các nội dung theo di chúc hoặc các anh chị em của ông/bà không chấp thuận bản di chúc đó.....thì tất cả có thể thỏa thuận với nhau để phân chia di sản thừa kế.
Chào luật sư! Trước tiên tôi xin tư giới thiệu tên tôi là hoàng kim lan. Đang sinh sống tại Đăk Lăk  đã được 22 năm.Bà nội tôi có 3 người con (2 trai,1 gái) bố tôi là út. Hiện tại 2 bác tôi còn ở ngoài bắc,ông bà cùng vào Đăk Lăk với bố mẹ tôi. Ông nội tôi mất từ năm 1993,bố mẹ tôi lo xong đám thì 2 bác mới vào đến nơi. Còn bà nội tôi mất năm 2009 trong khi đau ốm,đám tang đều do bố mẹ tôi lo liệu kể cả mộ phần. Về phần tài sản như sau:bố tôi vào từ cuối năm 1989 và được cấp một lô đất,sau đó bà nội tôi không yên tâm mới vào sau.Bố mẹ tôi sinh đươc 5 chị em đều là gái,còn bác trai của tôi có 1 trai 1 gái. Cho đến ngày bà nội tôi mất, tôi thấy bố tôi đưa cái sổ đỏ quyền sử dụng đất đai cho bác tôi,cái sổ đó bà tôi đã tự ý đứng tên bác tôi từ khi nào mẹ con tôi không hề biết còn phần bố tôi tính bất cần,rượu chè bê tha,không quan tâm gì tới GĐ con cái. Còn bác tôi càm cái sổ đỏ cũng không một lời nào,hơn nữa mẹ con tôi chăm sóc bà mấy tháng liệt giường,lo xong đám cũng không một lời gì........? Vậy  điều này chứng tỏ rằng GĐ bố tôi không coi mẹ con tôi ra gì cả.Đến nay bà nội đã mãn tang tôi thấy bức xúc quá nên hỏi LS xem tôi cần phải làm gì để lấy lại công bằng cho chị em chúng tôi. Mong LS giải đáp thắc  mắc  giúp.Tôi xin chân thành cảm ơn!
1. Theo thông tin bạn nêu thì GCN QSD đất đứng tên bác của bạn (sống ở ngoài Bắc), trong khi đó nguồn gốc đất là do gia đình bạn (bố mẹ và các anh chị em bạn) được giao từ năm 1989. Do vậy, gia đình bạn cần kiểm tra lại giá trị pháp lý của GCN QSD đất đó. Nếu bố mẹ bạn vào Đak Lak từ năm 1989 và được chính quyền địa phương giao đất để làm nhà thì thửa đất đó phải được cấp GCN QSD đất cho hộ gia đình bao gồm bố mẹ bạn và những người con di cư năm 1989 chứ không thể cấp GCN QSD đất cho ông bà bạn (ông bà bạn vào sau và sinh sống cùng với bố mẹ bạn?) hay cấp GCN QSD đất cho bác bạn ở ngoài Bắc được trừ trường hợp gia đình bạn đã thực hiện một giao dịch để chuyển quyền sử dụng đất đó cho bác của bạn. Gia đình bạn cần thu thập các thông tin về nguồn gốc đất trong hồ sơ địa chính và tìm hiểu kỹ căn cứ để cấp GCN QSD đất của bác bạn là gì (tặng cho, mua bán, chuyển nhượng...). 2. Nếu nguồn gốc đất là của chính quyền giao cho ông bà bạn, ông bà bạn được cấp GCN QSD đất, sau đó làm thủ tục tặng cho nhà đất đó cho bác của bạn. Đến khi ông bà bạn chết thì di sản không còn nên sẽ không đặt ra vấn đề thừa kế nữa. Hơn nữa, mẹ bạn dù có rất nhiều công sức chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nhưng theo pháp luật vẫn không thuộc hàng thừa kế nào của ông bà nên không được hưởng thừa kế của ông bà nội bạn. 3. Trong vụ việc của gia đình bạn cũng cần làm rõ đâu là tài sản chung của cha mẹ bạn, đâu là tài sản của ông bà để giải quyết cho thỏa đáng. Ví dụ: Nhà đất là của ông bà bạn nhưng bố mẹ bạn có công sức duy tu, sửa chữa thì khi giải quyết tranh chấp, tòa án vẫn phải xác định một phần giá trị tài sản là của cha mẹ bạn do có công duy tu, bảo quản, sửa chữa tài sản...
Ông nội tôi có 3 người con: Bố tôi (con cả) rồi đến cô tôi và một chú nữa. Cô và chú đều đã lập gia đình, và được ông chia cho hai mảnh đất, còn gia đình tôi hiện đang sống cùng ông bà, đăng kí làm hai hộ, một đứng tên ông nội tôi, một đứng tên bố tôi, và đã có sổ đỏ. Ông nội tôi mất năm 2011, và không để lại di chúc, căn nhà này cũng là tài sản riêng của ông nội tôi. Căn nhà gia đình tôi đang ở nằm trong quy hoạch, vài năm nữa sẽ ra ngoài mặt đường, chính vì thế có nảy sinh một số tranh chấp. Tôi muốn hỏi nếu như sau này bà tôi mất, và không để lại di chúc, thì phần thừa kế (là căn nhà hiện gia đình tôi đang ở) sẽ được chia như thế nào? Nếu như không thể thỏa thuận trong nội bộ gia đình, thì cô và chú tôi có quyền khởi tố đòi quyền sử dụng đất không? Và thời hạn khởi tố là bao nhiêu lâu? Hết thời hạn đó, thì gia đình tôi có thể bán căn nhà mà không cần sự đồng ý của cô và chú tôi hay không?
Theo thông tin bạn nêu thì nhà đất mà ông bà bạn và gia đình bạn đang sử dụng là tài sản của ông bà bạn (GCN QSD đất đứng tên ông bạn). Nếu ông bà bạn qua đời mà không để lại di chúc thì di sản đó sẽ thuộc về hàng thừa kế thứ nhất của ông bà bạn theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 BLDS, trong đó chú bạn và cô bạn cũng có quyền thừa kế như bố bạn. Thời hiệu "khởi kiện" tranh chấp thừa kế (chứ không phải "khởi tố") là 10 năm kể từ ngày người có di sản chết. Thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế của ông bạn (1/2) nhà đất là 10 năm (2011=2021), thời hiệu khởi kiện về thừa kế của bà bạn cũng là 10 năm kể từ ngày bà bạn qua đời. Nếu hết thời hiệu trên mà không có tran chấp thì người đang sử dụng di sản được quyền tiếp tục sử dụng di sản. Nay bà bạn còn sống nên nếu bà bạn lập di chúc (hợp pháp) để lại cho bố bạn 1/2 giá trị nhà đất đó thì phần tài sản đó sẽ thuộc về gia đình bạn, các cô chú sẽ không đòi chia thừa kế đối với phần di sản của bà bạn được nữa. Còn phần di sản của ông bạn nếu có tranh chấp thì Tòa án sẽ chia đều cho các thừa kế vì ông bạn không có di chúc.
Kính gửi các Quý Luật Sư. Tôi cần giúp đỡ một vấn đề về tranh chấp & thừa kế đất đai như sau: Gia đình tôi có 02 anh em trai và 02 mảnh đất. Tạm gọi là mảnh A và mảnh B. Hai mảnh này đều mang tên Mẹ tôi khi Mẹ tôi còn sống (vì Bố tôi đã mất - năm 1990). Lý lịch của 02 mảnh như sau: - Mảnh A: Ông Nội tôi mua từ những năm 1950 và gia đình tôi sống trên đó từ năm 1980 đến bây giờ. Đây là phần của Bố tôi được Ông Nội tôi chia cho các con trai của ông, nhưng sổ đỏ vẫn mang tên Ông Nội. Đến năm 1998, mảnh đất này được Ông Nội tôi sang tên cho Mẹ tôi. Đến nay chưa có tranh chấp gì. - Mảnh B: Bà Ngoại tôi mua năm 1997, tên sổ đỏ là Bà Ngoại tôi. Đến năm 2007 thì Bà ngoại tôi sang tên sổ đỏ cho Mẹ tôi. Ông Nội, Bà Ngoại và Ông Ngoại tôi vẫn còn sống, Bà Nội tôi mất năm 2003. Mẹ tôi ra đi đột ngột vì bạo bệnh (năm 2010) nên không để lại di chúc. Hiện nay, Sổ đỏ mảnh A do anh trai tôi giữ, Sổ đỏ mảnh B do Bà Ngoại tôi giữ và Bà đang muốn lấy lại 1/2 mảnh đất này. Vậy tôi xin hỏi: - Nếu hiện nay có tranh chấp xảy ra thì các mảnh đất sẽ phân chia như thế nào? - Bà Ngoại tôi tự ý bán mảnh B mà không thông qua anh em tôi thì có sai luật không? - Nếu không có tranh chấp gì trên mảnh đất B thì sau bao lâu sẽ không được kiện cáo tranh chấp nữa? Tôi xin chân thành cảm ơn!
Mẹ bạn mất không để lại di chúc thì tài sản của mẹ bạn sẽ được phân chia theo luật, và theo trình bày của bạn thì có 4 người được hưởng một phần bằng nhau. Như vậy cần phải xác định tài sản nào là tài sản của mẹ bạn. Đối với thửa đất A, có nguồn gốc là tài sản bên nội bạn cho cha bạn, nên khi cha bạn chết tài sản của ông được chia cho: Các con, vợ, cha và mẹ của cha bạn. Do đó mẹ bạn được hưởng 1/3 , 1/4 hoặc 1/5 thửa đất A tùy thuộc việc ông bà nội bạn còn sống hay đã chết vào thời điểm cha bạn chết. Đối với thửa đất B, ông bà ngoại bạn sang tên cho mẹ bạn là tài sản của mẹ bạn, nên tài sản nầy là tài sản riêng của mẹ bạn. như vậy phần tài sản của mẹ bạn là thửa đất B cộng với (1/3, 1/4 hoặc 1/5) thửa đất A, phần nầy chia cho ông bà ngoại và anh em của bạn mổi gười một phần bằng nhau. (2/3, 3/4 hoặc 4/5) là phần của anh em bạn và cô chú,bác của bạn. Đây là di sản chưa kê khai thừa hưởng nên không ai có quyền định đoạt, nên bạn không cần quan tâm việc ông bà ngoại bán. Cháu nội, ngoại của người chết không được thừa hưởng di sản nếu cha mẹ nó còn sống, con dâu không được thừa hưởng tài sản của cha mẹ chồng.