text
stringlengths 224
381k
| id
stringlengths 25
31
| metadata
dict | perplexity
float64 21.2
200
|
---|---|---|---|
Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Tin tức:
Trang chủ diễn đàn Trợ giúp Đăng nhập Đăng ký
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 25 Tháng Hai, 2021, 01:25:13 am
1 Giờ 1 Ngày 1 Tuần 1 Tháng Vô hạn
Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Dựng nước - Giữ nước > Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam > Tài liệu - Hồi ký Việt Nam (Quản trị: macbupda) > Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 » Xuống
« Trước Tiếp »
In
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2 (Đọc 82486 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 11393
Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
« Trả lời #30 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2010, 07:41:18 pm »
Ở Phan Rí (Bình Thuận), khi tên quận trưởng cho nhân dân được tự do tranh luận những cái tốt và cái xấu của quốc gia và cộng sản, ông Bộ Gạch người dân tộc Chàm đã đứng lên nói:
- Quốc gia có 9 cái tốt và một cái xấu, còn cộng sản có 9 cái xấu và 1 cái tốt.
Tên quận trưởng liền hỏi: một cái xấu của quốc gia là gì?
- Quốc gia ở với dân xấu quá.
Tên quận trưởng bực dọc nói: Thế một cái tốt của cộng sản là gì?
Ông già thản nhiên trả lời:
- Việt cộng ăn ở với dân quá tốt. Các ông có làm gì đi nữa, lòng dân vẫn theo Việt cộng và cuối cùng Việt cộng vẫn thắng...1
Nhân dân còn đặt nhiều câu hỏi để chất vấn những tên chỉ đạo tố cộng: “Chúng tôi không thấy cộng sản độc tài vì rằng kháng chiến, cộng sản kêu gọi đánh Tây giành độc lập nay mới có hòa bình, dân đói họ kêu gọi sản xuất để được no ấm”, “Quốc gia nói cộng sản cướp công kháng chiến, những lúc đánh Tây quốc gia ở đâu, sao toàn thấy cộng sản?”. “Nói quốc gia kháng chiến tại sao lại làm cho Tây?”. “Độc lập mà chưa thống nhất thì chưa phải độc lập, thống nhất bằng cách nào? Theo như cách này thì phải chiến tranh tương tàn hay sao?”... Những câu hỏi dồn dập như vậy làm cho địch bí không trả lời được. Nhiều lần chúng phải giải tán lớp học. Tên chủ tịch Hội đồng chỉ đạo tố cộng Trung ương đã thú nhận: “Đây là một thất bại lớn vì phong trào chất vấn rộng rãi, hướng dẫn viên của chúng ta không giải quyết được”2.
Ở nhiều nơi, địch bắt những người kháng chiến cũ, những đảng viên cộng sản, những gia đình có người thân tập kết phải ra “đầu thú quốc gia”, phải chào cờ ba que, xé cờ Đảng, phải làm giấy “ly khai Đảng”, phải qùy gối “sám hối”. Nhưng đối với nhân dân miền Nam để sớm theo Đảng làm cách mạng, đã được hưởng những quyền lợi thiết thực của cách mạng đem lại trong Cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp thì Đảng là niềm tin và lẽ sống, là độc lập, tự do, là Tổ quốc thống nhất. Dù cho kẻ địch có xảo quyệt đến đâu cũng không lừa bịp được họ, không dập tắt được phong trào đấu tranh của nhân dân.
Trong những giờ phút thử thách ác liệt nhất, hàng ngàn tấm gương ngời sáng chủ nghía anh hùng cách mạng xuất hiện đã giữ vững niềm tin cho quần chúng, cổ vũ họ đấu tranh và làm cho Đảng ngày càng bám rễ vững chắc trong nhân dân. Nhân dân vẫn che giấu, nuôi dưỡng cán bộ, đảng viên, làm giao thông liên lạc, chuyển công văn. Cảm động xiết bao về những bà má Nam Bộ tay đưa túi gạo tiếp tế, chỉ đường cho cán bộ tránh né, rồi lại gõ mõ, xách gậy rượt bắt theo hướng khác để đánh lạc hướng kẻ thù. Nhiều bà mẹ ở Khu V đã nhường cả nơi thờ cúng tôn nghiêm nhất cho cán bộ ẩn náu. Nhiều gia đình cơ sở đã đào hầm bí mật cho cán bộ ở hàng tháng trong nhà.
Đồng chí Nguyễn Đình Liệu, nguyên Chủ tịch huyện Tiên Phước (Quảng Nam) tự tay dùng dao mổ bụng, lôi ruột gan ra trước mặt quân thù khi chúng buộc đồng chí phải xuất thú đầu hàng.
Bí thư chi bộ làng Krông Hơra (nam An Khê) bị địch chôn đến cổ, dùng cuốc đập vỡ đầu. Trước lúc hy sinh, anh còn cố sức hô lớn “Bác Hồ muôn năm”.
Chị Lý ở thị xã Bạc Liêu, đoàn viên thanh niên, bị địch bắt đưa ra trước quần chúng, buộc chị phải xé ảnh Bác Hồ. Chị Lý bình tĩnh ôm ảnh Bác dõng dạc nói: “Chúng mày có xé ảnh Bác thì xé luôn xác tao. Quân phản động bán nước”.
Mẹ Trần Thị Kế ở Giồng Trôm (Bến Tre), địch bắt tra tấn, buộc phải khai báo chồng, con và chỉ chỗ ở của cán bộ. Mẹ đã thét vào mặt kẻ thù: “Cán bộ, chồng con tao trong trái tim tao, bay có kiếm, mổ ra mà tìm”.
Em Nguyễn Thị Thanh 15 tuổi, làm liên lạc, bị địch bắt trong lúc đang làm nhiệm vụ. Địch tra khảo, đốt cháy hai chân, Thanh vẫn không một lời khai báo, v.v...
______________________________________
1. Khu V, 30 năm chiến tranh giải phóng, tập II, Sđd, tr. 32- 33.
- Cũng nội dung tranh luận như trên, trong một đêm “tố cộng” ở Chợ Lớn, một bác nông dân nói “Việt cộng có nhiều cái xấu: súng xấu, đạn xấu, quần áo xấu… chỉ có cái tốt là trong kháng chiến sống chết để bảo vệ dân. Quốc gia thì có nhiều cái tốt: súng tốt, xe cộ tốt, quần áo tốt, chỉ có cái xấu là hay giật của dân thôi”.
2. Tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 3, tr. 12.
Logged
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 11393
Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
« Trả lời #31 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2010, 07:42:00 pm »
Để bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ trước hành động gia tăng khủng bố ngày càng ác liệt của địch, nhiều cấp ủy ở miền Nam đã có chủ trương “điều lắng”1 cán bộ. Những cán bộ, đảng viên ở lại bám trụ được phép giảm bớt hoặc tạm ngừng hoạt động một thời gian, chờ khi có lệnh mới. Những cán bộ, đảng viên bị lộ phải điều đi nơi khác hoạt động hoặc lên “bưng biền”, chiến khu cũ, dựa vào địa thế hiểm trở và đồng bào để sinh sống, xây dựng lực lượng.
Tình thế thật là hiểm nghèo, bức bách! Kẻ thù đã dùng bạo lực quân sự chống lại nhân dân miền Nam. Đảng bộ và đồng bào miền Nam không còn con đường nào khác, đã phải cầm vũ khí chống lại. Họ đã tự tìm đào súng đạn do bộ đội chôn giấu trước ngày tập kết và chế tạo những vũ khí thô sơ, đánh trả quân địch, diệt trừ những tên ác ôn, tề điệp chỉ điểm, bảo vệ mình, xây dựng căn cứ và phát triển lực lượng.
Trong năm 1955, hầu hết các cơ quan lãnh đạo khu và tỉnh đều tổ chức các đơn vị bảo vệ nơi đóng quân. Ở nông thôn, do nhu cầu chống địch bắt bớ cán bộ, cướp bóc tài sản của nhân dân, các đội tự vệ được thành lập ở thôn, xã dưới danh nghĩa các đội “dân canh chống cướp” Mỗi xã ở Nam Bộ có từ một, hai tiểu đội đến một, hai trung đội. Lực lượng chủ yếu của tổ chức này là thanh niên yêu nước, có một số là du kích, bộ đội ta trước đây, nay đã về làng cũ làm ăn bình thường. Họ cùng nhân dân tham gia đấu tranh chính trị và khi cần họ chống lại địch bằng vũ khí thô sơ tự trang bị. Tháng 8-1955, đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến và đồng chí Phạm Ngọc Sến (Phó bí thư Tỉnh ủy Cà Mau) được Xứ ủy giao nhiệm vụ xây dựng các đơn vị vũ trang bí mật trong căn cứ U Minh, Năm Căn. Tại đây, từ tháng 8 đến tháng 12-1955, ta đã mở được 3 lớp huấn luyện quân sự, tổ chức thành 6 trung đội, phân tán về các địa phương hoạt động theo phương châm: “Giữ bí mật không xưng danh là Giải phóng quân, hoạt động từng tổ với danh nghĩa cán bộ binh vận”.
Ở các tỉnh Chợ Lớn, Gia Định, Long An, Mỹ Tho, số cán bộ, đảng viên đã bị lộ tập trung về các vùng Đức Hòa, Đồng Tháp Mười sát biên giới Việt Nam - Campuchia để tạm lánh. Số anh em này được tổ chức thành tiểu đội, trung đội để tiện sinh hoạt, tránh né khi địch càn, dần dần được trang bị một số lựu đạn và súng trường để chiến đấu bảo tồn lực lượng, bảo vệ căn cứ.
Ở Khu V, nhân dân một số nơi tự động nổi lên giết ác ôn. Có nơi cán bộ cơ sở hướng dẫn cho nhân dân diệt ác, nhưng dấu không báo cáo với trên vì sợ phê bình. Thanh niên nhiều buôn ở miền núi đã kéo nhau ra rừng lập các trại “bí mật”, tự tổ chức thành đội ngũ và trang bị bằng các loại vũ khí thô sơ.
Khi Mỹ - Diệm mở các chiến dịch tiêu diệt lực lượng vũ trang của các giáo phái, Trung ương Đảng và Xứ ủy Nam Bộ chủ trương giúp đỡ các giáo phái duy trì lực lượng vũ trang chống Diệm, đồng thời đưa người của ta vào nắm các lực lượng ấy, hướng họ đi theo con đường yêu nước chân chính. Lực lượng vũ trang giáo phái bị lính của Diệm đánh tan rã, bọn cầm đầu đầu hàng, một số đơn vị chạy theo cách mạng đem về hàng ngàn khẩu súng. Số này được ta thuyết phục, giác ngộ trở thành lực lượng vũ trang của ta. Những cán bộ, chiến sĩ trước đây được cài vào lực lượng giáo phái tập hợp lại và bổ sung thêm những cán bộ, du kích mật để thành lập các đơn vị vũ trang cách mạng tập trung mang danh nghĩa lực lượng của giáo phái.
Đến cuối năm 1956, Nam Bộ đã tổ chức được 37 đại đội trung đội vũ trang tự vệ, vũ trang tuyên truyền hoạt động dưới nhiều hình thức, song còn ở mức hạn chế, vì sợ vi phạm đường lối, chủ trương của Đảng.
Đi đôi với việc ra đời của các lực lượng vũ trang, các căn cứ địa cách mạng từng bước được xây dựng, mở rộng làm chỗ đứng chân cho các cơ quan lãnh đạo và lực lượng vũ trang. Việc xây dựng cơ sở, giáo dục chính trị, đào tạo huấn luyện cán bộ cũng được xúc tiến đi đôi với đẩy mạnh tăng gia sản xuất để bảo đảm đời sống cho cán bộ và lực lượng vũ trang. Các căn cứ địa trong thời gian này chủ yếu là dựa vào các vùng căn cứ cũ trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Ở Nam Bộ có các chiến khu Đ, chiến khu Dương Minh Châu, căn cứ Đồng Tháp Mười, chiến khu Năm Căn, U Minh. Ở Trung Bộ có các căn cứ ở miền núi phía tây các tỉnh đồng bằng và ở Tây Nguyên.
Việc tổ chức lực lượng vũ trang và xây dựng căn cứ đã hạn chế một phần sự khủng bố của địch, giữ gìn lực lượng cách mạng trong thời gian đầu và chuẩn bị điều kiện cho việc kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang trong những năm sau.
Đứng trước bước ngoặt mới của đất nước, Đảng ta đã nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sớm xác định kẻ thù chủ yếu, chỉ ra phương hướng nhiệm vụ cho cả nước và riêng từng miền; đồng thời vừa làm vừa suy nghĩ để tìm ra con đường và phương pháp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước sao cho phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế lúc bấy giờ, đặng tranh thủ sự động tình ủng hộ của bè bạn năm châu bốn biển, phân tán cô lập kẻ thù. Đó là con đường đi đầy chông gai phức tạp nhưng cũng đầy tính sáng tạo, vì chưa có tiền lệ. Chính vì ý thức được con đường cách mạng mà Đảng và Hồ Chủ tịch đã chọn, nên Đảng bộ và đồng bào miền Nam đã giữ trọn niềm tin, vượt bao gian khổ hy sinh, không ngừng đấu tranh quyết tâm cứu nước, cứu nhà và cứu mình.
______________________________________
1. Bí mật điều cán bộ, đảng viên ở vùng này đến vùng khác đề tránh địch theo dõi, phát hiện.
Logged
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 11393
Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
« Trả lời #32 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2010, 10:58:26 pm »
Chương V
XÂY DỰNG MIỀN BẮC LÀM CÁI GỐC, CÁI NỀN
CHO CUỘC ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG MIỀN NAM
Trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, hậu phương cũng là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi. Không có hậu phương vững mạnh thì tiền tuyến không thể chiến thắng kẻ thù - nhất là kẻ thù đế quốc Mỹ, tên đế quốc mạnh nhất hành tinh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ:
“Muốn dựng ngôi nhà tốt phải xây NỀN cho thật vững.
Muốn cây được mạnh, lá được tươi, hoa được đẹp, quả được tốt thì ra sức chăm sóc vun xới gốc cây.
Miền Bắc là cái NỀN cái GỐC của cuộc đấu tranh hoàn thành giải phóng dân tộc, thực hiện thống nhất nước nhà. Cho nên mọi việc chúng ta làm ở miền Bắc đều nhằm tăng cường lực lượng của miền Bắc và miền Nam”1.
Nhận thức được quy luật quan trọng này, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ đầu đã xác định miền Bắc là nền tảng của cuộc đấu tranh của cả nước, đã sớm định ra đường lối xây dựng miền Bắc tiến lên CNXH. Đây là nhiệm vụ lâu dài, đồng thòi cũng khẩn trương cấp bách để phục vụ cho công cuộc đấu tranh chính trị ở miền Nam. Vì vậy, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã tập trung trí tuệ và sức lực vào việc xây dựng miền Bắc và hỗ trợ tích cực cho đồng bào ta ở miền Nam trực tiếp đấu tranh chống Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới.
I. MIỀN BẮC KHÔI PHỤC, CẢI TẠO VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HÓA TRONG NHỮNG NĂM 1955 - 1960
A- HOÀN THÀNLl CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT VÀ KHÔI PHỤC KINH TẾ
Để hoàn thành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước “điều cốt yếu là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân miền Nam”2 Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa II), tháng 8-1955 khẳng định: “Miền Bắc là chỗ đứng của ta. Bất kể trong tình huống nào, miền Bắc cũng phải được củng cố”3, “Củng cố miền Bắc và chiếu cố miền Nam không thể tách rời... Cần khắc phục tư tưởng sai lầm cho rằng: để chiếu cố đến miền Nam nên hạ thấp yêu cầu củng cố miền Bắc. Đồng thòi, cũng đề phòng tư tưởng chỉ đơn thuần củng cố miền Bắc chứ không chiếu cố đến miền Nam một cách thỏa đáng”4.
Sau ngày miền Bắc được giải phóng, Đảng và Nhà nước ta đã khẩn trương lãnh đạo nhân dân hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời sống, đồng thời tiếp tục hoàn thành cải cách ruộng đất. Đảng ta xem đó là “chính sách bất di bất dịch của ta”5. Hội nghị lần thứ 7 và 8 của Trung ương (tháng 3 và tháng 8-1955) đã quyết nghị: “Để củng cố miền Bắc, trước hết cần hoàn thành cải cách ruộng đất... vì có đẩy mạnh cải cách ruộng đất mới đoàn kết được đại đa số nhân dân, củng cố được công nông liên minh, củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, mới có thể khôi phục kinh tế một cách nhanh chóng và có thêm điều kiện tăng cường quân đội nhân dân, củng cố quốc phòng”6.
______________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 7, Sđd, tr. 454.
2, 3, 4. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (8-1955) Văn kiện tịch sử Đảng, Trường Nguyễn Ái Quốc ấn hành, t. 9, tr.66-67.
5. Nghị quyết Bộ Chính trị (9-1954), Văn kiện Lịch sử Đảng, Tlđd, tr. 19-20.
6. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (mở rộng) tháng 3-1955, Văn kiện Lịch sử Đảng. Tlđd, tr. 44.
Logged
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 11393
Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
« Trả lời #33 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2010, 11:00:15 pm »
Vào giai đoạn cuối của Cuộc kháng chiến chống Pháp, cải cách ruộng đất được tiến hành trên 53 xã thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Thanh Hóa. Hòa Bình lập lại, nhân dân ta đã làm chủ toàn bộ miền Bắc, do đó có điều kiện đẩy mạnh cải cách ruộng đất, hoàn thành nhiệm vụ chiến lược của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng nông dân lao động khỏi chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến. Tuy nhiên, trong điều kiện đất nước còn chia làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, để tranh thủ mọi lực lượng yêu nước ở cả hai miền Nam, Bắc, mỏ rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng và Nhà nước ta chủ trương sửa đổi một số điểm trong Luật cải cách ruộng đất và phương thức thi hành luật. Nhà nước mở rộng diện trưng mua và hiến ruộng của những địa chủ không phạm tội ác chống phá cách mạng, kể cả ruộng đất của các chủ đồn điền Pháp và những địa chủ người Việt Nam đã hợp tác với Pháp trong thời kỳ chiến tranh. Giai cấp địa chủ được phân thành từng bộ phận khác nhau tùy theo thái độ chính trị của họ, để có chính sách và biện pháp sát hợp. Ở vùng tự do cũ, Đảng và Nhà nước quyết định rút ngắn thời gian cải cách ruộng đất lại, giảm bớt những nhiệm vụ có thể giảm bớt, hạ thấp yêu cầu có thể hạ thấp. Để nhanh chóng ổn định tình hình, công tác cải cách ruộng đất phải được kết hợp chặt chẽ với việc vận động nhân dân thi hành chính sách vận động sản xuất, cứu đói, chống cưỡng ép di cư, thu thuế, chỉnh đốn Đảng, nông hội, chính quyền... Phòng ngừa những sai lệch có thể phạm phải trong quá trình tiến hành chủ trương trên của Đảng, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương (3-1955) nhấn mạnh “Ra sức khắc phục những tư tưởng “hữu” khuynh và “tả” khuynh trong phong trào, nhưng chống “hữu” là chính và trong khi chống hữu phải đề phòng cán bộ lệch sang tả”1.
Sau đợt 2, đợt 3 và đợt 4, từ tháng 12-1955, cuộc vận động cải cách ruộng đất bước vào đợt 5, tiến hành ở 1720 xã thuộc 20 tỉnh và 2 thành phố. Đây là những vùng trước đó không lâu còn bị địch chiếm, vì thế, đợt 5 diễn ra phức tạp gay go. Tháng 7-1956, đợt 5 cải cách ruộng đất kết thúc. Ta đã chia 334000 ha ruộng đất tịch thu, trưng thu, trưng mua của địa chủ cho hơn 2 triệu gia đình nông dân. Giai cấp địa chủ và tàn dư của chế độ phong kiến miền Bắc bị xóa bỏ. Người nông dân từ nô lệ lên địa vị làm chủ nông thôn là một sự đổi đời của nông dân miền Bắc. Mơ ước ngàn đời của họ được thực hiện. Đó là thắng lợi của cải cách ruộng đất, là thành tựu to lớn của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Song, khi đợt 5 sắp kết thúc, Đảng nhận ra những sai lầm phạm phải trong quá trình cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. “Căn cứ vào số ruộng đất đã chia cho nông dân trong cải cách ruộng đất, căn cứ tác hại rất nghiêm trọng của sai lầm cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, thì chủ trương cải cách ruộng đất như đã làm là không cần thiết. Đó là vì trước khi tiến hành cải cách ruộng đất, giai cấp địa chủ, chế độ phong kiến đã căn bản bị xóa bỏ và mục tiêu người cày có ruộng đã căn bản được thực hiện với tỷ lệ hơn 2/3 ruộng đất đã về tay nông dân, với quyền làm chủ của nông dân trong nông thôn đã được thực hiện từ Cách mạng tháng Tám đến kháng chiến chống Pháp...”2. Nguyên nhân sai lầm là do không nắm vững những biến đổi về sở hữu ruộng đất, về giai cấp địa chủ và chế độ phong kiến ở nông thôn miền Bắc sau năm 1954.
Mặt khác, không giữ vững đường lối độc lập tự chủ, áp dụng máy móc, giáo điều kinh nghiệm của nước ngoài, nên trong chỉ đạo đã cường điệu tính chất đấu tranh giai cấp ở nông thôn, ngả sang tả, đánh nhầm vào nội bộ nông dân - đặc biệt là tầng lớp trung nông lớp trên; không chú ý tới những địa chủ đã có công ủng hộ kháng chiến, hoặc có con em tham gia kháng chiến... Trong chỉnh đốn tổ chức, đã vi phạm điều lệ và nguyên tắc của Đảng “phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng, phố biến và kéo dài nhiều mặt”3, đã xử lý oan nhiều cán bộ, đảng viên, gây không khí căng thẳng ở nhiều vùng nông thôn. Hậu quả sai lầm này đã “làm cho lực lượng của Đảng bị tổn thất nặng, làm cho đảng viên và cán bộ hoang mang và hoài nghi chính sách của Đảng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến truyền thống và chí khí đấu tranh của các đảng bộ, đến tinh thần đoàn kết trong Đảng, trong chính quyền, trong Mặt trận, khiến cho uy tín của Đảng bị giảm sút trong quần chúng, quan hệ giữa Đảng và quần chúng bị ảnh hưởng rất nhiều”4. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực phản động và thù địch ở hai miền Nam, Bắc tuyên truyền xuyên tạc nhằm đả kích sự lãnh đạo của Đảng, chống phá sự nghiệp xây dựng miền Bắc.
Tháng 7-1956, nhân dịp phong trào phát huy dân chủ, mở rộng phê bình lãnh đạo, một số văn nghệ sĩ đã từng phục vụ cách mạng, nhưng trước tình hình sai lầm của cải cách ruộng đất đã hoài nghi, dao động, cho xuất bản tờ báo Nhân văn và tập san Giai phẩm đả kích, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, truyền bá tư tưởng tự do tư sản.
Trước tình hình đó, Đảng đã kiên trì lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Ủy ban hành chính Hà Nội ra quyết định đóng cửa báo “Nhân văn”.
Ở bờ Nam sông Bến Hải và một số thành phố lớn miền Nam, địch trương to những khẩu hiệu tuyên truyền nói xấu miền Bắc, nói xấu Đảng. Những luận điệu tuyên truyền bịp bợm đó đã một phần nào ảnh hưởng xấu tới việc tập hợp lực lượng cách mạng ở miền Nam, đặc biệt là đối với tầng lớp trung gian.
______________________________________
1. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (3-1955). Tlđd, tr. 44-45.
2. Kết luận của Bộ Chính trị về một số vấn đề lịch sử Đảng thời kỳ 1954-1975 ngày 25-5-1994.
- Theo Tổng cục Thống kê: Việt Nam con số và sự kiện, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990, thì trong cải cách ruộng đất đợt 5 - bao gồm cả sửa sai - ta chia cho nông dân 334.001 ha chiếm 42,2%, còn trước đó đã chia 476.000 ha chiếm 58,2%.
3, 4. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 10, tháng 9-1956.
Logged
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 11393
Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
« Trả lời #34 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2010, 11:01:54 pm »
Tháng 4-1956, Đảng ra chỉ thị sửa chữa những sai lầm trong cải cách ruộng đất. Ngày 18-8-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào nông thôn và toàn thể cán bộ, đảng viên. Sau khi chỉ rõ thắng lợi của cải cách ruộng đất cùng những sai lầm, khuyết điểm trong việc thực hiện và hướng sửa chữa sai lầm của Trung ương Đảng, Chính phủ, Người kêu gọi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân hãy tăng cường đoàn kết xung quanh Đảng và Chính phủ; và “Đoàn kết là lực lượng tất thắng của chúng ta. Để củng cố miền Bắc làm nền tảng vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, toàn dân ta cần đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi trên cơ sở liên minh công - nông trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cán bộ cũ và cán bộ mới của Đảng và chính quyền càng phải thống nhất tư tưởng, đoàn kết nhất trí, thi đua phục vụ nhân dân”1.
Tháng 9-1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành Trung ương Đảng được triệu tập để kiểm điểm việc chỉ đạo thực hiện cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Ban chấp hành Trung ương Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm, công khai thừa nhận khuyết điểm trước toàn Đảng, toàn dân. Hội nghị chỉ rõ nguyên nhân sai lầm và quyết nghị kiên quyết sửa chữa những sai lầm đã phạm phải trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức ở nông thôn. Ban chấp hành Trung ương Đảng đã xử lý kỷ luật những đồng chí Trung ương trực tiếp chỉ đạo cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Đồng thời, Trung ương quyết định phục hồi những chi bộ đảng bị giải tán sai, sửa lại thành phần cho những cá nhân bị quy sai, khôi phục đầy đủ quyền lợi, danh dự, công tác cho những người bị xử lý sai, bãi bỏ mọi hình thức quản chế đối với những trường hợp bị quy sai là Việt gian, phản động; chấp hành nghiêm các chế độ, chính sách đối với các gia đình quân nhân cách mạng, các chính đảng, tôn giáo, dân tộc, các địa chủ có công với kháng chiến. Kiên quyết sửa sai. nhưng thận trọng không ngả sang “hữu”, “dội gáo nước lạnh vào quần chúng cơ bản, làm nguội nhiệt tình của họ. Đối với cán bộ phạm sai lầm thì lấy giáo dục làm chính, song cũng phải thi hành kỷ luật đối với một số có trách nhiệm nặng”2.
Trong khi sửa sai, Đảng và Nhà nước lãnh đạo kiên quyết đánh lui những đợt tiến công của đối phương. Ngày 6-1-1958, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết về việc chấn chỉnh công tác văn nghệ. Nghị quyết nêu rõ: “... Cần đánh thẳng vào những tư tưởng chống Đảng, chống chế độ, chống chủ nghĩa xã hội, chống đường lối văn nghệ của Đảng đặng củng cố lập trường nâng cao một bước tư tưởng chính trị và nghệ thuật và trên cơ sở đó mà tăng cường đoàn kết số rất đông văn nghệ sĩ dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Trên tinh thần đó, ta đã trấn áp bọn phản động ở Quỳnh Yên, đóng cửa báo Nhân văn và tập san Giai phẩm; đồng thời mở một đợt tuyên truyền về thời sự, giải thích về chính sách của Đảng, Nhà nước, tổ chức học tập Nghị quyết Trung ương lần thứ 10, đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn và Nghị quyết Bộ Chính trị. Đảng và Nhà nước phái gần một vạn cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam về các vùng nông thôn cùng chính quyền, các đoàn thể cách mạng và quần chúng nhân dân sửa sai, ổn định tình hình, khôi phục và giữ vững sản xuất. Trong phức tạp và gian khổ, một lần nữa, Quân đội nhân dân thể hiện sự trung thành với Đảng, thực sự là chỗ dựa vững chắc, đáng tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Thái độ nghiêm khắc và công khai thừa nhận sai lầm, tìm rõ nguyên nhân, định rõ trách nhiệm, kiên quyết sửa chữa sai lầm của Ban chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Đến cuối năm 1957, mặc dù vẫn còn nhiều hậu quả phải có thời gian khắc phục, nhưng về cơ bản công việc sửa sai đã hoàn thành, lấy lại được niềm tin của quần chúng đối với Đảng. Do đó “đã ổn định được tình hình, giữ vững được trật tự, an ninh, củng cố chính quyền nhân dân, giữ vững được khối đoàn kết toàn dân và củng cố được vai trò lãnh đạo của Đảng”3.
Hoàn thành cải cách ruộng đất, tiến hành có kết quả việc sửa chữa sai lầm đã đưa lại chuyển biến lớn trong nông thôn miền Bắc. Chế độ phong kiến thống trị hàng ngàn năm đã hoàn toàn bị xóa bỏ, thế lực chính trị và kinh tế của giai cấp địa chủ bị đánh đổ, nông dân lao động trở thành người chủ nông thôn, một lòng tin vào đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ. Đó là tiền đề cho việc khôi phục và phát triển nông nghiệp, cải tạo và đổi mới nông thôn miền Bắc.
Cùng với cuộc vận động cải cách ruộng đất, Đảng và Nhà nước chủ trương duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, động viên mọi năng lực hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế, ổn định và bước đầu cải thiện đời sống nhân dân. Đảng ta cho rằng:
“Phải đặc biệt coi trọng việc nâng cao mức sống của nhân dân về vật chất và tinh thần, nhất là nhân dân lao động ở thôn quê và thành thị vì đó là điều kiện cần thiết để củng cố miền Bắc và tranh thủ miền Nam một cách có hiệu quả”4.
______________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 7, Sđd, tr. 508-509.
2. Thống nhất tư tưởng: đoàn kết toàn Đảng, hoàn thành nhiệm vụ công tác trước mắt. Báo cáo đọc tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13. Văn kiện lịch sử Đảng: tlđd, t.9, tr. 242-243.
3. Văn kiện lịch sử Đảng, Tlđd, t.9, tr. 242 - 243.
4. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (8-1955), Tlđd, tr.67.
Logged
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 11393
Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
« Trả lời #35 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2010, 11:02:48 pm »
Là ngành kinh tế bao trùm và bị tổn thương nặng nhất trong chiến tranh, phục hồi nông nghiệp trở thành khâu chính của nhiệm vụ khôi phục kinh tế. Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định phát động phong trào thi đua sản xuất và tiết kiệm vụ Xuân 1955, đẩy mạnh trồng trọt các loại hoa màu, tăng diện tích trồng cây vụ Xuân để chống đói trong những ngày giáp hạt. Tháng 2-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào và cán bộ cả nước thi đua tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Người nhấn mạnh: “Hiện nay, nhiệm vụ vẻ vang của đồng bào là phải ra sức thi đua khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp để làm cho đồng bào nông dân ấm no, để cung cấp cho quân đội, để đảm bảo tiếp tế cho các thành thị, để đẩy mạnh việc khôi phục kinh tế nước nhà”1. Nhằm khuyến khích phục hồi và phát triển sản xuất, tháng 5-1955, Chính phủ đã ban hành 8 chính sách đối với nông nghiệp: bảo đảm quyền sở hữu ruộng đất, bảo hộ tài sản của nông dân và các tầng lớp dân cư, khuyến khích khai hoang phục hóa; khuyến khích thành lập các tổ đổi công; phục hồi nghề phụ và các ngành nghề thủ công ở nông thôn; bảo hộ và khen thưởng những hộ sản xuất giỏi; nghiêm cấm phá hoại sản xuất, giết hại trâu bò... Đồng thời, Nhà nước cho phép tự do thuê mướn nhân công, thuê mướn trâu bò, vay và cho vay; sửa lại biểu thuế nông nghiệp theo hướng giảm bớt thang bậc và suất thuế từ 41 bậc xuống còn 22 bậc. Nhà nước tập trung nguồn vốn, huy động lực lượng khôi phục, sửa chữa 12 công trình thủy lợi lớn bị phá trong chiến tranh, xây dựng một số công trình tưới tiêu mới, đào đắp hàng chục vạn mét khối đất; củng cố, tu bổ lại hệ thống đê đập, phát động nông dân tích cực đào mương, khơi ngòi, khai hoang, phục hóa.
Mặc dù yếu tố kỹ thuật trong canh tác chưa có gì mới, nhưng được sự giúp đỡ, khuyến khích của Nhà nước và sau khi sức sản xuất được giải phóng khỏi quan hệ sản xuất cũ, nông nghiệp miền Bắc trong 3 năm (1955-1957) đã được khôi phục và có bước phát triển cả về diện tích, năng suất, chăn nuôi, nghề phụ. Phong trào làm thủy lợi và khai hoang phục hóa đã đưa diện tích đất trồng cấy được tưới nước lên 628.000 hécta, vượt xa mức 326.000 hécta năm 1939, đưa số ruộng đất hoang hóa vào canh tác lên tới 85%, kể cả số ruộng đất của những hộ nông dân vào Nam bỏ lại. Như vậy, nếu năm 1939, diện tích đất trồng cấy toàn miền Bắc là 2.129.700 hécta, thì 3 năm khôi phục kinh tế, bình quân diện tích đất trồng cấy mỗi năm tăng hơn năm 1939 là 506.300 hécta, tức 27,4%. Năng suất các loại cây trồng chủ yếu trong nông nghiệp cũng vượt năm 1939: lúa từ 2,4 triệu tấn lên tới 3,95 triệu tấn, khoai tăng 70%, lạc tăng 29%, bông tăng 16%. Tuy gặp nhiều khó khăn về giống, vốn, thức ăn... nhưng đàn gia súc được khôi phục, riêng chăn nuôi trâu bò có bước phát triển, đạt mức 2,1 triệu con. Nhiều nghề phụ ở nông thôn như gốm, mộc, rèn, đúc, dệt... hồi phục, góp phần tăng thêm thu nhập, cung cấp vật dụng hàng ngày cho nông dân.
Sau 3 năm, nông thôn miền Bắc đang hồi sinh, khởi sắc. Nạn đói với những kỳ giáp hạt “tháng 3 ngày 8” bám riết bao kiếp người trong xóm làng miền Bắc trước đây, nay được khắc phục một phần căn bản. Đó là nỗ lực lớn của giai cấp nông dân liên minh với giai cấp công nhân, là tác động của đường lối, chính sách mà Đảng, Nhà nước đã ban hành và thực hiện trong nông nghiệp thời kỳ này.
Sau ngày miền Bắc giải phóng, nước ta đứng trước một nền công nghiệp thấp kém, bị tàn phá nặng nề. Ở vùng tự do cũ, một số cơ sở sản xuất quốc doanh và một số ngành sản xuất phục vụ dân sinh như vải, giấy, xà phòng... được xây dựng. Những cơ sở công nghiệp nặng như mỏ than Uông Bí, mỏ kẽm chợ Điền, mỏ thiếc Tĩnh Túc đều ngừng hoạt động. Trong vùng địch chiếm, chúng ra sức khai mỏ than ở Hồng Gai, duy trì một số nhà máy điện ở Hà Nội, Hải Phòng, nhà máy xi măng, nhà máy dệt Nam Định, xây dựng một số cơ xưởng sửa chữa, cơ khí, một số nhà máy sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ cho quân đội viễn chinh... Khi rút khỏi miền Bắc, địch tháo gỡ máy móc, thiết bị, phụ thùng mang đi, phá hỏng những gì không đem theo được. Ngày chúng ta vào tiếp quản, hầu hết các nhà máy, xí nghiệp Pháp để lại đều ngừng hoạt động.
Để nhanh chóng khôi phục công nghiệp, thủ công nghiệp, Đảng, Nhà nước chủ trương “phàm là công thương nghiệp có lợi cho quốc kế dân sinh đều được khuyến khích phục hồi và phát triển”2. Vì thế, “Công thương nghiệp tư nhân nhất loạt được bảo hộ. Đối với công thương nghiệp của địa chủ cũng nhất loạt không đụng đến”3. Tuy nhiên, để hướng thành phần kinh tế này phục vụ đắc lực cho quốc kế dân sinh, đi dần vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước từng bước thực hiện các hình thức thấp của tư bản nhà nước như kinh tiêu, đại lý, gia công, đặt hàng...
Đối với công nghiệp quốc doanh, Nhà nước tập trung phục hồi, mở rộng và xây dựng các cơ sở sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu thiết yếu đời sống nhân dân, trong số đó có các nhà máy chè Phú Thọ, diêm Thống Nhất, thuốc lá Thăng Long, gỗ dán Cầu Đuống, cá hộp Hải Phòng và các nhà máy cao su, xà phòng, đồ sắt tráng men, bóng đèn, phích nước... Các nước xã hội chủ nghĩa đã giúp đỡ về vốn, kỹ thuật, chuyên gia, đặc biệt là sự giúp đỡ quan trọng và có hiệu quả của Liên Xô, Trung Quốc. Nhờ đó, chúng ta đã xây dựng một số cơ sở sản xuất tư liệu sản xuất phục vụ công nghiệp và nông nghiệp, trong đó đã khởi công xây dựng nhà máy cơ khí Hà Nội - cơ sở đầu đàn của công nghiệp chế tạo máy. Trải qua thử thách trong chiến tranh, đội ngũ cán bộ, công nhân viên từng bước trưởng thành, phát huy khí thế chiến thắng và ý chí tự lực, tự cường, ngày đêm bám máy, bám công trường, duy trì và mở rộng sản xuất ở 18 xí nghiệp ra đời trong kháng chiến, khôi phục 10 xí nghiệp sau hòa bình, xây dựng và đưa vào hoạt động hàng chục xí nghiệp mới... Như vậy năm 1957, sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp đạt mức năm 1939. Nếu cuối 1954, giá trị sản lượng công nghiệp trong tổng giá trị sản lượng công nông nghiệp còn khoảng 1,5% thì đến năm 1957, tỷ lệ đó đã đạt 24% trong tổng sản phẩm xã hội. Nhiều mặt hàng trước đây phải nhập từ nước ngoài, nay đã bắt đầu được sản xuất trong nước như vải phin, pôpơlin, rượu, thuốc lá, cá hộp, diêm, gỗ dán... Nạn khan hiếm hàng hóa được khắc phục.
______________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 7, Sđd, tr. 159.
2, 3. Nghị quyết Bộ chính trị, tháng 9-1954, Văn kiện lịch sử Đảng, t. 9, Tlđd, tr. 18.
Logged
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 11393
Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
« Trả lời #36 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2010, 11:03:16 pm »
Nhằm đẩy nhanh nhịp độ khôi phục công, nông nghiệp, ổn định sinh hoạt, đi lại của nhân dân và củng cố quốc phòng, Nhà nước đã đầu tư vào giao thông, vận tải, bưu điện một số vốn khá lớn. Năm đầu sau giải phóng, số tiền dành cho khôi phục giao thông, vận tải và bưu diện chiếm 54,4% trong tổng mức đầu tư của Nhà nước vào xây dựng và kiến thiết cơ bản. Những năm tiếp theo, tỷ trọng đó là 28,4% (1956), 20,9% (1957). Sau ngày giải phóng, mạng giao thông miền Bắc bị thương tổn nặng nề. Nền đường bị đào xẻ, sạt lở, đường ray bị bóc dỡ, cầu cống, nhà ga bị phá sập, luồng sông, cửa biển bị bồi lấp, phương tiện vận tải, bốc dỡ cũ kỹ, han gỉ, thiếu phụ tùng thay thế. Trong số 1152km đường sắt chỉ có 118km có thể sử dụng. Nhiều quãng đường bộ trùm lấp cỏ hoang. Cơ sở hạ tầng ở các vùng nông thôn và miền núi, hết sức nghèo nàn, lạc hậu; vận chuyển, đi lại chủ yếu bằng sức người và những phương tiện thô sơ trên những nẻo đường quanh co, trồi sụt... Trong 3 năm khôi phục, lần lượt bốn tuyến đường sắt với tổng chiều dài 657km, 75 ga chính và ga xép, 168 cầu cống đã được phục hồi, nối Thủ đô với các miền đất nước. Chúng ta đã khôi phục được 1624km, sửa chữa lớn 1660km và làm mới gần 600km đường trục chính ô tô, đường giao thông liên tỉnh, cải tạo nâng cấp, làm mới 583km đường miền núi, nạo vét hơn 6 triệu mét khối sa bồi ở cửa sông, đưa hai cảng lớn Hải Phòng, Bến Thủy vào hoạt động. Dọc các luồng sông Thao, sông Luộc, sông Thương... nhân dân đôi bờ dỡ thác, phá ghềnh, bỏ “kè kháng chiến”, tạo điều kiện cho thuyền bè xuôi ngược, nối kết miền núi với đồng bằng. Các tuyến điện thoại, điện báo, đường thư và công văn từ Trung ương tới địa phương, các đường dây liên tỉnh và nội tỉnh được phục hồi, xây dựng, đưa vào khai thác, phục vụ kịp thời công tác chỉ đạo sản xuất, cải cách ruộng đất, chống cưỡng ép di cư, chống phỉ... Liên lạc quốc tế cũng được thiết lập trong thời kỳ này.
Song song với việc khôi phục các tuyến giao thông bưu diện, Nhà nước chú trọng tăng cường phương tiện vận tải quốc doanh, khuyến khích thành phần vận tải tư nhân đổi mới thiết bị, tăng sức vận chuyển. Chỉ riêng phương tiện vận tải đường bộ quốc doanh, từ 30 đầu xe trong thời kỳ kháng chiến, đến năm 1956 đã có 390 xe. Lực lượng vận tải quốc doanh tạo điều kiện tốt cho việc điều tiết giá cước, điều tiết lực lượng vận tải tư nhân, đảm bảo chuyển vận hàng hóa trên các cung đường xa…
Những nỗ lực của Nhà nước và nhân dân trong khôi phục giao thông, bưu điện đã nâng khối lượng vận chuyển từ 21,1 triệu tấn và 201 triệu tấn km (1955) lên 5,5 triệu tấn và 367 triệu tấn km (1957), đáp ứng kịp thời nhu cầu đi lại, giao lưu kinh tế, văn hóa giữa thành thị và nông thôn giữa miền núi với đồng bằng góp phần vào sự nghiệp xây dựng, củng cố quốc phòng an ninh.
Nhịp độ và kết quả trong khôi phục kinh tế thúc đẩy sự phát triển của văn hóa, giáo dục, y tế. Sau năm 1954, số người thất học, mù chữ từ độ tuổi 12 đến 50 trên miền Bắc lên tới 3,5 triệu. Đó là một trong nhiều hậu quả tệ hại của chế độ cũ. Nhiệm vụ cấp thiết của toàn Đảng, toàn dân là xóa bỏ tệ nạn này. Nhà nước quyết định thống nhất hai hệ thống giáo dục ở vùng tự do và vùng tạm chiếm trước đây thành hệ giáo dục phổ thông 10 năm, mở thêm nhiều trường cấp 1, cấp 2 và cấp 3 ở vùng đồng bằng, miền núi, xây dựng 18 trường học sinh miền Nam nội trú với 15.000 học sinh cấp 1, cấp 2. Chăm lo tới việc học hành của con em các dân tộc ít người. Chính phủ chủ trương thiết lập hệ thống giáo dục từ cấp Khu đến cấp cơ sở, mở trường sư phạm miền núi Trung ương, động viên và ban hành chế độ chính sách khuyến khích giáo viên miền xuôi lên dạy học ở miền ngược. Năm học 1956-1957, toàn miền Bắc có 65 vạn học sinh, trong đó số học sinh con em các dân tộc ít người là 60.000 người, chiếm 3,2% số dân các dân tộc. Bên cạnh hệ thống giáo dục phổ thông, chính quyền địa phương các cấp, các ngành tạo mọi điều kiện cho nhân dân đi học các lớp “Bình dân học vụ”. Đêm đêm trên những nẻo đường làng quê bập bùng ánh lửa, râm ran tiếng nói cười, đấy là những người dân sau một ngày lao động đã thắp đuốc, cầm đèn, gọi nhau tới lớp. Lần thứ hai trong lịch sử của chế độ dân chủ cộng hòa, “diệt dốt” trở thành phong trào quần chúng, biểu hiện ý chí của một dân tộc không cam chịu sự thất học, phận đói nghèo. Nhưng khác chăng, không như năm 1945, “giặc đói” và giặc ngoại xâm đe thách từng phút từng giờ, lần này, việc xóa mù diễn ra trong khung cảnh miền Bắc đã trở lại bình yên, chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố...
Cùng với phong trào xóa nạn mù chữ, Đảng, Chính phủ chủ trương đẩy mạnh bổ túc văn hóa cho cán bộ, công nhân viên, quân đội và nhân dân. Ở nông thôn, thời kỳ này mở các lớp cấp I (lớp 1, lớp 2), nơi nào có điều kiện mở thêm các lớp cấp II. Trong xí nghiệp, cơ quan nhà nước, đơn vị quân đội, các lớp bổ túc được mở đều đặn mỗi tuần hai tối. Từ năm 1956, Chính phủ mở các trường bổ túc công nông bồi dưỡng văn hóa cho cán bộ và thanh niên công nông trước khi thi vào các trường đại học, trung học chuyên nghiệp.
Ngoài những cơ sở hình thành trong kháng chiến được tổ chức lại, sau năm 1954, nhiều trường đại học, trung học chuyên nghiệp ra đời, đào tạo cho đất nước hàng ngàn cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội. Các trường đại học Bách khoa, đại học Tổng hợp, đại học Nông-Lâm, cao đẳng mỹ thuật được thành lập thời kỳ này, bên cạnh đại học Y-Dược, đại học Sư phạm đã có từ trước. Năm 1955-1956, toàn miền Bắc có 3750 học sinh trung học chuyên nghiệp, 1140 sinh viên đại học. Năm học tiếp theo, số sinh viên đại học tăng lên 3860. Nhà nước chú trọng tới cơ cấu xã hội trong tuyển sinh theo hướng tăng tỷ lệ sinh viên xuất thân từ giai cấp công nhân, nông dân, bộ đội. Học sinh miền núi và phụ nữ dự thi được khuyến khích, ưu tiên.
Khắc phục thiếu thốn, khó khăn, cán bộ nhân viên ngành y tế về tận làng bản xa xôi khám, chữa bệnh cho nhân dân, gây phong trào “Vệ sinh yêu nước” từ nông thôn tới thành thị. Mạng lưới y tế bước đầu hình thành với 50 bệnh viện, 13 cơ sở điều dưỡng, 350 nhà hộ sinh và 5000 ban phòng bệnh. Nhiều dịch bệnh truyền nhiễm từng gây tai họa và khiếp sợ cho bao gia đình nhất là ở nông thôn và miền núi... dần dần bị ngăn chặn. Tại các vùng mới giải phóng, các đội điều trị mở các đợt khám chữa bệnh hoa liễu, góp phần khắc phục loại bệnh xã hội này.
Trên cơ sở sản xuất khôi phục cuộc sống bớt khó khăn gay gắt, bệnh tật giảm... đời sống văn hóa thời kỳ này có bước phát triển, giao lưu văn hóa giữa các miền được chú trọng khuyến khích. Các đội văn công, chiếu phim lưu động phục vụ đồng bào nông thôn, tới các nông trường, đến các nhà máy biểu diễn. Các thôn xóm đều lập các đội văn nghệ nghiệp dư, không chỉ diễn các tích trò truyền thống mà còn xây dựng những tiết mục ca ngợi cuộc sống mới, ca ngợi lao động, ca ngợi các gương anh hùng liệt sĩ vì nước hy sinh...
Ba năm sau khi hòa bình được lập lại trên nửa nước là quãng thời gian ngắn. Trong quãng thời gian đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đã nỗ lực phấn đấu vì sự hồi sinh của miền Bắc, vì sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Những kết quả đạt được thời kỳ này trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa mới chỉ là kết quả ban đầu. Nhưng, để có những kết quả ban đầu đó, chúng ta phải khắc phục nhiều trở ngại khách quan và một số vấp váp chủ quan. Vấp váp chủ quan do mới ra khỏi chiến tranh, chúng ta thiếu kinh nghiệm trong việc tổ chức và quản lý kinh tế - xã hội, áp dụng rập khuôn một số biện pháp có hiệu quả trong kháng chiến nhưng không còn thích ứng ở giai đoạn cách mạng mới. Trong học tập kinh nghiệm của các nước, chúng ta tiếp thu thiếu linh hoạt, máy móc...
Về mặt đó, không chỉ những kết quả khôi phục kinh tế phát triển văn hóa mà cả những bài học thành công và chưa thành công trong giai đoạn này là cơ sở để chúng ta bước vào giai đoạn tiếp theo một cách bình tĩnh và chắc chắn hơn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 11393
Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
« Trả lời #37 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2010, 11:04:10 pm »
B- CẢI TẠO VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
Tháng 4-1958, kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa I được triệu tập tại Hà Nội. Phát biểu trong phiên khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhận định của Đảng và Chính phủ... “từ ngày hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta đã từ cách mạng dân tộc-dân chủ nhân dân chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ trước mắt của toàn dân ta là ra sức xây dựng và củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, nhằm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Nhận định đó có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cách mạng chuyển biến đòi hỏi phải có một sự chuyển biến sâu sắc về tư tưởng và nhận thức, đòi hỏi phải có những chính sách, những biện pháp về công tác tổ chức phù họp với tình hình mới”1. Quốc hội đã thảo luận và thông qua nghị quyết xây dựng miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam.
Giữa tháng 11-1958, Hội nghị lần thứ 14 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) thông qua Nghị quyết về tổng kết cải cách ruộng đất, khẳng định thắng lợi to lớn, căn bản có tính chiến lược và nghiêm khắc phân tích căn nguyên của những sai lầm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này, rút ra bài học lớn: phải tôn trọng những nguyên tắc tổ chức và nguyên tắc sinh hoạt của một đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, phải dũng cảm thừa nhận sai lầm và kiên quyết dựa vào lực lượng quần chúng cơ bản để tiến hành sửa sai. Về nhiệm vụ cách mạng hiện nay, Hội nghị cho rằng, sự nghiệp củng cố miền Bắc đòi hỏi phải đẩy nhanh hơn nữa công cuộc phát triển kinh tế, phát triển văn hóa. Trên cơ sở phân tích tình hình miền Bắc sau thời kỳ khôi phục kinh tế (1955-1957) và những chuyển biến mạnh mẽ của phong trào quần chúng trong ba năm. Hội nghị quyết định động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trên miền Bắc tiến hành ba năm cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế, phát triển văn hóa (1958 - 1960) với ba nhiệm vụ cơ bản:
1. Đẩy mạnh phát lriển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy sản xuất nông nghiệp làm khâu chính, chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề lượng thực đồng thời rất chú trọng sản xuất công nghiệp, hết sức tăng thêm các tư liệu sản xuất và giải quyết phần lớn hàng tiêu dùng.
2. Ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh theo chủ nghĩa xã hội, khâu chính là đẩy mạnh hợp tác hóa nông nghiệp, đồng thời tích cực phát triển và củng cố thành phần kinh tế quốc doanh.
3. Trên cơ sở sản xuất phát triển, nâng cao thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, nhất là nhân dân lao động và tăng cường củng cố quốc phòng.
Nông nghiệp và nông thôn miền Bắc sau cải cách ruộng đất có nhiều chuyển biến sâu sắc. Tuy vậy, trong quá trình này đã xuất hiện những mâu thuẫn mới. Với diện tích ruộng đất bình quân quá thấp - 0,4 hécta/hộ canh tác, người nông dân chưa thoát khỏi cái “xiềng ba sào”, nên sự bình ổn đang còn mong manh trong cuộc sống của hàng triệu con người suốt đời gắn bó với đất đai, mùa vụ, luôn luôn phấp phỏng với mọi đổi thay của thời tiết, khí hậu... trong khi phương tiện và các điều kiện canh tác như trâu bò, nông cụ, phân bón... còn thiếu thốn đủ bề. Lề lối sản xuất cá thể ngự trị bao đời, khiến cho người nông dân khó bề khắc phục có hiệu quả sự tàn hại của những đợt giông bão, những kỳ hạn hán và nạn sâu bệnh có rất nhiều ở một xứ nhiệt đới để bảo vệ mùa màng. Trong khi đó, các biện pháp kỹ thuật mới chưa được áp dụng và các điều kiện phân, giống... còn rất hạn chế... nên mùa màng năng suất luôn luôn thấp, không đủ cho nhu cầu.
Về mặt xã hội, trong nông thôn đã xuất hiện trở lại sự phân hóa giàu, nghèo. Thiên tai ốm đau, bệnh tật và những bất trắc gặp phải trong cuộc sống khiến một số gia đình cầm đợ ruộng đất, trâu bò, không giữ được thành quả cải cách ruộng đất. Một số khác làm giàu bằng cho vay nặng lãi, mua bán lúa non, thuê mướn ngươi làm với tiền công rẻ mạt... Khuynh hướng này manh nha và phát triển từ cuối năm 1956. Tài liệu điều tra tháng 5-1958 của Ban công tác nông thôn Trung ương ở 12 xã thuộc Hồng Quảng, Nam Định, Thanh Hóa, Ninh Bình cho thấy, trong số 119 gia đình bán ruộng có 74 là bần nông, 28 trung nông, 1 phú nông và 15 tiểu thương. Báo cáo của Ủy ban cải cách ruộng đất Trung ương tháng 3-1958 ghi nhận: trong số 200 nông hộ thuộc thôn An Cước, xã Liên An, tỉnh Hà Nam, có 47 hộ phải bán ruộng đất vì túng thiếu, ốm đau, 47 hộ phải bán trâu bò. Tình hình sẽ ngày càng gay gắt và ảnh hưởng xấu tới sự nghiệp củng cố miền Bắc, củng cố quốc phòng vì nông dân chiếm tuyệt đại dân số và sản xuất nông nghiệp bao trùm toàn bộ nền kinh tế.
Vốn có truyền thống đoàn kết, giúp đỡ nhau trong cuộc sống những năm kháng chiến, ở những vùng tự do, một số hộ nông dân đã tự nguyện liên kết, tương trợ nhau trong sản xuất dưới hình thức các tổ vần công, đổi công. Hòa bình lập lại, gắn với quá trình cải cách ruộng đất, khôi phục sản xuất, các tổ vần công, đổi công xuất hiện nhiều, trở thành phong trào quần chúng ở nông thôn. Giữa năm 1958, 41% hộ nông dân đã vào tổ đổi công và 134 hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp được xây dựng.
______________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 8, Nxb Sự thật. Hà Nội 1989. tr. 111.
Logged
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 11393
Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
« Trả lời #38 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2010, 11:04:35 pm »
Trước hai xu hướng đang diễn ra ở nông thôn, Đảng, Nhà nước chủ trương tiến hành cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp, xem đó là con đường đưa nông dân miền Bắc đến ấm no hạnh phúc. Nội dung cuộc vận động gồm ba mặt liên quan chặt chẽ: cải tạo quan hệ sản xuất, cải tiến kỹ thuật, giáo dục tư tưởng. Nguyên tắc xây dựng hợp tác xã được xác định: tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ. Do trình độ sản xuất nông nghiệp và khả năng hỗ trợ của công nghiệp còn yếu, hợp tác hóa phải kết hợp với cải tiến kỹ thuật và phát triển sản xuất, hợp tác hóa đi đôi với thủy lợi hóa và tổ chức lại sản xuất. Để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, ruộng đất, tài sản của các tổ chức tôn giáo, đồng bào di cư, của nhà thờ, nhà chùa, nhà chung đều được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu. Những chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước về hợp tác hóa và cải cách dân chủ ở miền núi tương đối sát hợp với tình hình ruộng đất, tình hình giai cấp và tập quán đồng bào ít người.
Chuẩn bị cho phong trào hợp tác hóa, từ mùa thu năm 1957, cán bộ, đảng viên được học tập đường lối, chính sách của Đảng trong nông nghiệp. Nhiều lớp học phổ biến chủ trương nông nghiệp hóa cho cán bộ, đảng viên ở cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh và cho quần chúng nhân dân được tổ chức. Đảng, chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương đều tổ chức các hội nghị rút kinh nghiệm, kiểm điểm tình hình thực hiện phong trào. Nhiều cán bộ có năng lực, am hiểu đời sống nông thôn được điều về cơ sở giúp chính quyền địa phương, giác ngộ quần chúng, chỉ đạo sản xuất, thành lập hợp tác xã. Nhà nước định rõ bước đi của phong trào, quy mô tổ chức hợp tác xã và các biện pháp thực hiện... Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm tới công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động quần chúng nhân dân, thường xuyên nhắc nhở đội ngũ cán bộ cơ sở nâng cao trách nhiệm, hết sức phòng ngừa tư tưởng nóng vội chạy theo số lượng, gò ép quần chúng…
Giai cấp nông dân tin tưởng một lòng theo Đảng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh làm cách mạng dân tộc, dân chủ. Ngày nay, họ vẫn kiện quyết theo Đảng đi vào con đường làm ăn tập thể, xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, đặc tính nghề nghiệp, công việc làm ăn, sinh sống nhiều vất vả, gieo neo, một nắng, hai sương buộc họ luôn thực tế trong tính toán, chọn lựa, căn cơ trong tiêu dùng. Đây là nét tâm lý hằng xuyên cố hữu trong bản tính bao đời của người nông dân. Vì vậy, bên cạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng, Đảng, Chính phủ đã ban hành các chính sách nhằm giúp đỡ, hỗ trợ nông dân, tạo điều kiện cho hợp tác xã phát huy tính hơn hẳn so với sản xuất cá lẻ: Chính sách tín dụng (giúp vốn cho hợp tác xã phát triển sản xuất), chính sách mậu dịch (ưu tiên mua hàng, bán hàng cho hợp tác xã), chính sách thuế nông nghiệp đối với ruộng đất của hợp tác xã, chính sách khuyến khích các hợp tác xã phát triển nghề phụ, chính sách tiền công và phân bố nhân lực, chính sách hướng dẫn và giúp đỡ kỹ thuật cho hợp tác xã...
Cải tạo nông nghiệp, đưa nông dân vào hợp tác xã là một sự nghiệp to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Trong khi Trung ương và các cấp ủy đảng tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác này, các cấp, các ngành, các đoàn thể đã tích cực giúp đỡ giải quyết nhanh các vấn đề thuộc về tài chính, mậu dịch, kỹ thuật, đào tạo cán bộ, hỗ trợ đắc lực cho phong trào.
Với nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và của các ngành, các cấp… kế hoạch cải tạo nông nghiệp tiên triển thuận lợi và nhanh gọn. Từ 134 hợp tác xã mùa thu 1958 đến tháng 11-1960, hợp tác xã hình thành hầu khắp xóm làng miền Bắc, ở cả vùng đồng bào các dân tộc ít người, vùng đồng bào Thiên chúa giáo, bao gồm 41.401 hợp tác xã với 85% tổng số hộ và 76% diện tích đất canh tác. Tuyệt đại đa số còn là hợp tác xã bậc thấp, quy mô nhỏ, trong đó ruộng đất, trâu bò, nông cụ vẫn thuộc sở hữu của hộ xã viên, nhưng do hợp tác xã thống nhất quản lý và sử dụng. Xã viên được hưởng 25% đến 30% số hoa lợi tính theo giá trị tài sản mà họ góp vào. Bên cạnh hợp tác xã, Nhà nước đã thành lập 15 nông trường quốc doanh - chủ yếu tiếp thu các doanh điền của thực dân Pháp và những Việt gian phản động bỏ lại. Ngoài ra một số đơn vị quân đội được giao nhiệm vụ khẩn hoang, lập 29 nông trường quân đội. Riêng cán bộ miền Nam tập kết được tổ chức thành 10 liên đoàn sản xuất nông nghiệp, 3 tập đoàn đánh cá. Phần lớn các nông trường phân bố trên những khu vực kết hợp được cả kinh tế với quốc phòng.
Hợp tác hóa căn bản hoàn thành vào cuối năm 1960, quan hệ sản xuất mới được xác lập là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử đối với nông thôn và nông dân miền Bắc, tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp phát triển, góp phần vào công cuộc kiến thiết miền Bắc và chi viện nhân tài, vật lực cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam.
Trước đây, loạn lạc đói kém và chiến tranh làm mai một nhiều ngành nghề thủ công truyền thống, làm tăng lên đáng kể số tiểu thương, hàng rong, buôn vặt. Hòa bình lập lại, sản xuất thủ công nghiệp từng bước hồi phục. Trong điều kiện công nghiệp còn bé nhỏ, nông nghiệp chưa phát triển, bình quân diện tích đất đai thấp, sản xuất tiểu thủ công nghiệp chiếm giữ một vị trí khá quan trọng, sản xuất hơn 80% vật dụng thiết yếu trong sinh hoạt của nhân dân, chủ yếu là nông dân, tạo ra công ăn việc làm thường xuyên cho hàng chục vạn người; chưa kể hàng chục vạn gia đình lấy sản xuất tiểu thủ công nghiệp làm nghề phụ lúc mùa vụ thư nhàn, rỗi rãi. Tuy nhiên, do chưa được tổ chức lại, những người làm nghề thủ công còn sản xuất phân tán, bảo thủ; dấu kín bí quyết nghề nghiệp, sản xuất thiếu ổn định... Trong khi đó, 20 vạn hộ buôn bán nhỏ (tính đến tháng 9-1958 ) số đông ít vốn, ít lời, lấy công làm lãi, đời sống bấp bênh, nhiều gia đình dần dần sa sút, túng quẫn, chỉ có số ít người trường vốn làm ăn khấm khá, đời sống ổn định.
Logged
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 11393
Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2
« Trả lời #39 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2010, 11:05:20 pm »
Một chế độ ưu việt trước hết mọi thành viên trong xã hội đó có công ăn việc làm ổn định, đời sống vật chất dư dật, cuộc sống văn hóa tinh thần văn minh, lành mạnh, làm lợi cho bản thân nhưng đồng thời phải làm lợi cho mọi người, cho xã hội. Vì vậy, cải tạo thủ công nghiệp và những người buôn bán nhỏ được đặt ra từ khi Đảng, Nhà nước chủ trương cải tạo các thành phần kinh tế. Chính quyền các cấp đã vận động thợ thủ công đi vào sản xuất tập thể, khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống, chuyển một bộ phận tiểu thương sang khu vực sản xuất vật chất, bộ phận còn lại tổ chức thành các hợp tác xã mua bán. Nhà nước đã hỗ trợ về vốn, nguyên liệu, vật liệu, kỹ thuật, xây dựng cơ bản, đào tạo cán bộ để thúc đẩy sự phát triển của tiểu thủ công nghiệp... Năm 1960, miền Bắc đã có 2.760 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, thu hút 87.969 thợ thủ công vào con đường làm ăn tập thể, đã chuyển năm vạn người buôn bán nhỏ sang khu vực sản xuất. Số còn lại trong tầng lớp tiểu thương (102.000) được tổ chức thành các hợp tác xã và cửa hàng mua bán. Tất cả các tổ chức trên đây đều được xây dựng theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.
Đồng thời với cải tạo nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và những người buôn bán nhỏ, việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xóa bỏ bóc lột tư bản chủ nghĩa, được xem là một nhiệm vụ chiến lược của cách mạng XHCN. “Hiện nay, điều kiện đã chín muồi để chúng ta chủ động, tích cực và khẩn trương đẩy việc cải tạo XHCN đối với kinh tế tư bản tư doanh và giai cấp tư sản dân tộc lên một bước quan trọng, có ý nghĩa quyết định: đưa xí nghiệp tư bản tư doanh từ hình thức thấp và vừa lên hình thức cao của tư bản nhà nước, chủ yếu là hình thức công tư hợp doanh, chuyển chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa về căn bản thành chế độ sở hữu nhà nước và trên cơ sở quan hệ sản xuất mới đó, biến dần người tư sản dân tộc thành người lao động”1.
Trước đây trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tư sản dân tộc vốn nhỏ bé về kinh tế, bị đế quốc thực dân chèn ép về chính trị, từng là đồng minh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Từ ngày miền Bắc được giải phóng, họ vẫn thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng, tôn trọng cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc, có những đóng góp tích cực trong công cuộc phục hồi kinh tế ổn định tình hình sau chiến tranh. Căn cứ vào tương quan lực lượng, thái độ chính trị, thực lực kinh tế của giai cấp tư sản miền Bắc, đồng thời để tranh thủ lực lượng yêu nước ở miền Nam, Đảng và Nhà nước tiếp tục coi giai cấp tư sản dân tộc là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, coi mâu thuẫn giai cấp giữa công nhân và nhà tư sản là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Vì vậy, Đảng và Nhà nước đã dùng phương pháp dân chủ để giải quyết mâu thuẫn ấy; dùng phương pháp hòa bình để cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Nhà nước không tịch thu, trưng thu tư liệu sản xuất mà chuộc lại và trả dần, sử dụng các hình thức cải tạo từ thấp đến cao: gia công, đặt hàng, kinh tiêu, đại lý, xí nghiệp hợp tác, xí nghiệp công tư hợp doanh; kết hợp cải tạo với vận động, thuyết phục, giáo dục, làm cho nhà tư sản dân tộc “Thấy nội dung và ý nghĩa của chính sách cải tạo hòa bình, làm cho họ thấy con đường cải tạo là con đường vẻ vang, con đường tham gia vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước của giai cấp tư sản dân tộc”2.
Về phía mình, Đảng, Nhà nước định ra chính sách về kiểm kê, kiểm định tài sản, chính sách lãi và mức lãi... bảo đảm tính chính xác, sự công bằng và hợp lý, không để nhà tư sản thiệt thòi. Vì vậy, trong quá trình thực hiện kiểm kê, kiểm định, định ra mức lãi... các bên liên quan đã bàn bạc dân chủ trước khi đi đến thỏa thuận. Đồng thời, tùy theo trình độ, tài năng, nhà tư sản được xếp việc làm trong các xí nghiệp công tư hợp doanh và được trả lương theo khả năng lao động của họ...
Việc đề ra và giải quyết tốt các chính sách liên quan tới quyền lợi kinh tế, chính trị của nhà tư sản là nhân tố quan trọng ổn định tư tưởng của họ. Đại đa số các nhà tư sản đã tiếp thu và thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Cuối năm 1960, toàn bộ cơ sở công thương nghiệp tư bản tư doanh trong diện cải tạo, bao gồm 889 cơ sở công nghiệp, 933 cơ sở thương nghiệp, 313 cơ sở vận tải đã được tổ chức thành các xí nghiệp công tư hợp doanh, các xí nghiệp hợp tác, các hợp tác xã thủ công nghiệp. 13.112 công nhân được giải phóng khỏi sự bóc lột của giai cấp tư sản, trở thành chủ nhân của các xí nghiệp. 1732 nhà tư sản và 500 người trong gia đình họ cùng 700 tiểu chủ được sắp xếp việc làm, trở thành người lao động.
Xét về thời gian, diễn biến, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tiểu thương và công thương nghiệp tư bản tư doanh đã được thực hiện nhanh, thuận lợi. Kinh tế tư bản tư doanh đã chuyển thành kinh tế công tư hợp doanh, phần lớn kinh tế của người sản xuất nhỏ được tổ chức thành kinh tế hợp tác xã. Sự thay đổi về quan hệ sản xuất mở ra khả năng mới để phát triển sản xuất. Và chỉ bằng phát triển sản xuất mới có thể củng cố quan hệ sản xuất vừa thiết lập. Vì thế, trong quá trình cải tạo thành phần kinh tế tư nhân - nhiệm vụ trọng tâm thời kỳ 1958 -1960, Nhà nước đã đề ra và thực hiện các chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể xây dựng được cơ sở vật chất cho chế độ mới; thúc đẩy nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa.
______________________________________
1. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 16 (4-1959) về vấn đề cải tạo XHCN đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh. Văn kiện lịch sử Đảng, Tlđd, t. 10, tr. 15, 18.
2. Tlđd, tr. 18.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 » Lên
In
« Trước Tiếp »
Chuyển tới: Chọn nơi chuyển đến: ----------------------------- Thông tin chung ----------------------------- => Bảng tin => Chung sức xây dựng website ===> Trao đổi thông tin về sách ===> Mặt trận Wiki => Giúp đỡ tìm người ----------------------------- Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam ----------------------------- => Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam => Cha ông ta đánh giặc => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tài liệu nước ngoài => Tự dịch => Văn học chiến tranh ----------------------------- Thảo luận Lịch sử bảo vệ Tổ quốc ----------------------------- => Từ thuở mang gươm đi mở cõi... => Quyết tử cho Tổ quốc... => Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước... => Anh ở biên cương... => Từ cây giáo đến khẩu súng... => Kiến thức quốc phòng ----------------------------- Máu và Hoa ----------------------------- => Một thời máu và hoa => Về người lính hôm nay => Hình ảnh - Kỷ vật => Về lại chiến trường xưa... ----------------------------- Văn hoá - Thể thao - Giao lưu ----------------------------- => Quán nước cổng doanh trại => Du lịch => Xem phim bãi => Văn công => Chiến sỹ khoẻ ----------------------------- Chợ xép ngoài rào doanh trại ----------------------------- => Hàng sách cũ => Chợ trời
Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines
Dilber MC Theme by HarzeM
Loading...
(...TRUNCATED) | 1614178347293.1.parquet/41470 | [object Object](...TRUNCATED) | 200 |
Phân tích ưu và nhược điểm của Google Ads Smart Bidding - fff.com.vn
Phân tích
Phân tích Traffic Website
Phân tích từ khóa
Tốc độ website – pagespeed
Công cụ backlink checker
Dữ liệu thị trường
Quảng cáo
Tặng code 1.350.000 vnđ
Chặn click ảo Google Ads
Bán tài khoản Google Ads
Soi quảng cáo đối thủ
Tính chi phí quảng cáo
Khám bệnh Google Ads
Google Ads – Report
Traffic
Traffic website
Tương tác Facebook
Traffic Instagram
Traffic Youtube
Traffic TikTok
Backlink – SEO
Facebook
Hút khách
Chăm khách
Bảng giá
Blog
Liên hệ
Đăng ký
Select Page
Phân tích ưu và nhược điểm của Google Ads Smart Bidding
by Le Quan | 11/09/2020 | Digital Marketing Blog, Quảng cáo | 0 comments
Mục lục
1. Google Ads Smart Bidding là gì?
2. Tại sao nên sử dụng chiến lược Đặt giá thầu thông minh
3. Ưu điểm đặt giá thầu Smart Bidding so với thủ công
4. Các tùy chọn Smart Bidding của Google
5. Chọn chiến lược Google Ads Smart Bidding
6. Những hạn chế khi sử dụng Google Ads Smart Bidding
7. Chia sẻ cách phân tích từ khóa hiệu quả
Đặt giá thầu tự động luôn là vấn đề được nhiều người quan tâm và nhắc đến, bên cạnh đó cũng có vô vàn câu hỏi được đặt ra như “Có nên áp dụng hình thức đặt giá thầu tự động không?”, “đặt giá thầu tự động có tốn nhiều ngân sách không?”,…và rất nhiều câu hỏi liên quan khác. Bạn biết không, mục đích sử dụng của công cụ đặt giá thầu thông minh là tạo ra hiệu suất cao nhất có thể dựa trên mục tiêu của bạn. Những năm gần đây các tính năng đặt giá thầu thông minh của Google đã có những bước phát triển vượt bậc và trở thành một công cụ hữu ích giúp việc quản lý chiến dịch đặt thầu của các nhà quảng cáo trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn rất nhiều.
Những lợi ích mà Google Ads Smart Bidding mang đến cho người dùng là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, đặt giá thầu thông minh vẫn sẽ có những hạn chế mà bạn cần phải biết. Do đó, để làm rõ hơn vấn đề này mình sẽ phân tích ưu và nhược điểm của Google Ads Smart Bidding thông qua bài viết bên dưới, cùng theo dõi để có câu trả lời ngay nhé!
1. Google Ads Smart Bidding là gì?
Đặt giá thầu thông minh là một tập hợp con của các chiến lược giá thầu tự động sử dụng máy móc để tối ưu hóa cho chuyển đổi hoặc giá trị chuyển đổi trong hầu hết các phiên đấu giá. Nói một cách đơn giản hơn, đây là một tính năng của Google Smart Bidding để phân tích một số tín hiệu theo ngữ cảnh tại thời điểm đấu giá, từ đó đặt giá thầu với mục đích nhắm mục tiêu cho quảng cáo của bạn.
Khi nhắc đến Google Ads, việc lựa chọn giữa đặt giá thầu thủ công và đặt giá thầu thông minh là chủ đề rất được quan tâm. Như bạn biết đấy, khi đặt giá thầu thủ công bạn sẽ đặt giá thầu cho mỗi từ khóa quảng cáo. Bạn có thể điều chỉnh giá thầu của mình tùy thuộc vào các yếu tố như vị trí, thiết bị, nhân khẩu học và đối tượng khách hàng mục tiêu,…Nhưng nếu bạn đang chạy nhiều quảng cáo khác nhau cùng lúc, thì việc đặt giá thầu thủ công có thể trở thành một công việc phức tạp và tốn thời gian, công sức.
Quảng cáo Google trong nhiều năm qua đã có những bước phát triển nhất định, do đó để tối đa hóa chuyển đổi của bạn thì hình thức đặt thầu thông minh của Ads sẽ là lựa chọn phù hợp hơn. Nguyên nhân Google Ads có sự thay đổi trong việc tự động đặt giá thầu là vì các chiến lược giá thầu tự động CPA hoặc ROAS đều sẽ được tối ưu hóa theo thiết bị, thời gian, vị trí và đối tượng trên cơ sở từng phiên đấu giá.
Có nhiều tùy chọn đặt giá thầu thông minh khác nhau của Google để bạn lựa chọn, nhưng trước khi tìm hiểu về các tùy chọn này hãy cùng điểm qua các lợi ích của hình thức đặt giá thầu thông minh nhé.
2. Tại sao nên sử dụng chiến lược Đặt giá thầu thông minh
Hình thức đặt giá thầu thông minh sẽ mang đến 4 lợi ích chính giúp bạn tiết kiệm thời gian công sức nhưng vẫn mang về kết quả tốt nhất cho chiến dịch.
Công nghệ máy học nâng cao
Khi đặt giá thầu, thuật toán máy học sẽ hỏi dựa trên dữ liệu ở quy mô lớn giúp bạn đưa ra dự đoán chính xác hơn trong tài khoản về việc các giá thầu khác nhau có thể ảnh hưởng như thế nào tới chuyển đổi hoặc giá trị chuyển đổi. Các thuật toán này xem xét nhiều tham số ảnh hưởng đến hiệu suất hơn so với một người hoặc một nhóm có thể tính toán.
Nhiều loại tín hiệu theo ngữ cảnh
Tín hiệu được hiểu là các thuộc tính giúp xác định người hoặc ngữ cảnh tại ngay tại thời điểm đấu giá. Khi sử dụng tính năng đặt giá thầu tại thời điểm đấu giá, bạn sẽ có thể đưa nhiều tín hiệu vào các hoạt động tối ưu giá thầu. Các tín hiệu này bao gồm các thuộc tính như thiết bị và vị trí có ở hình thức đặt thầu thủ công, tín hiệu bổ sung và tổ hợp tín hiệu có ở hình thức đặt giá thầu thông minh. Ví dụ: thiết bị, vị trí thực tế, vị trí mà họ tìm kiếm, ngày trong tuần và thời gian trong ngày, hệ điều hành,…
Kiểm soát hiệu suất một cách linh hoạt
Chiến lược Đặt giá thầu thông minh cho phép bạn đặt các mục tiêu hiệu suất và tùy chỉnh các tùy chọn cài đặt theo mục tiêu kinh doanh riêng của mình. Chẳng hạn như tối ưu hóa giá thầu tìm kiếm cho mô hình phân bổ đã chọn trước đó và gồm cả phân bổ theo hướng dữ liệu. Hoặc đặt mục tiêu hiệu suất riêng cho các thiết bị khác nhau như thiết bị di động, máy tính bảng, laptop, Pc bằng tính năng đặt giá thầu CPA mục tiêu.
Báo cáo hiệu suất minh bạch
Đặt giá thầu thông minh sẽ cung cấp công cụ báo cáo như báo cáo chiến lược giá thầu, trạng thái chiến lược giá thầu, bản nháp và thử nghiệm chiến dịch, trình mô phỏng, thông báo và cảnh báo cần thiết,…giúp bạn có được thông tin chi tiết hơn về hiệu suất mà chiến dịch mang lại, đồng thời có hướng khắc phục nhanh chóng khi gặp phải các sự cố khi vận hành.
3. Ưu điểm đặt giá thầu Smart Bidding so với thủ công
Thêm dấu hiệu để phân tích
Bạn có thể hiểu dấu hiệu ở đây là các thông tin dữ liệu khác nhau mà bạn có thể sử dụng để điều chỉnh quảng cáo của mình và nhắm mục tiêu các nhóm đối tượng cụ thể. Chúng là yếu tố không thể thiếu trong bất kỳ chiến lược Google Ads nào.
Khi đặt giá thầu thủ công, các dấu hiệu thường được xem xét gồm loại thiết bị, đối tượng, nhân khẩu học, vị trí, thời gian trong một tuần và thời gian trong một ngày. Tuy nhiên, với đặt giá thầu thông minh, số lượng dấu hiệu để phân tích được mở rộng hơn rất nhiều bao gồm trình duyệt, hệ điều hành, ngôn ngữ của giao diện,…
Bên cạnh đó, bạn không thể phủ nhận rằng các thuật toán thông qua hình thức thầu thông minh có thể xử lý lượng dữ liệu lớn hơn nhiều so với khả năng cho phép của con người và hiển nhiên độ chính xác cũng sẽ cao hơn.
Không mắc sai lầm
Không giống như máy móc, con người có cảm xúc và năng suất làm việc đôi khi bị ảnh hưởng bởi tâm trạng, và không một ai trong chúng ta có thể chắc chắn rằng mình sẽ không mắc phải sai lầm trong lúc làm việc. Nếu bạn phải cùng lúc sắp xếp và quản lý nhiều quảng cáo, nhóm quảng cáo, đối tượng và chiến dịch khác nhau thì nhất định bạn sẽ không thể tránh khỏi việc mình sẽ nhầm lẫn trong lúc thực hiện. Ví dụ đơn giản, chỉ cần bạn vô tình thêm “0” vào mục CPC tối đa bạn sẽ mất một số tiền khá lớn nhưng chẳng mang lại lợi ích gì mà còn gây ra thiệt hại về tài chính cho chiến dịch.
Nhưng nếu bạn dùng hình thức đặt thầu Smart Bidding thì khác, quá trình thực hiện đều do máy móc xử lý, đồng nghĩa nguy cơ mắc phải các sai lầm trong quá trình phân tích sẽ được giảm thiểu. Mặc dù việc vận hành hình thức thầu thông minh vẫn do con người thực hiện, tuy nhiên hệ thống đã đảm nhận hầu hết các công việc, do đó bạn sẽ ít gặp lỗi hơn và không mắc phải các lỗi đắt tiền.
Tiết kiệm thời gian và công sức
Nếu bạn sử dụng phương thức thủ công để đặt giá thầu hiển nhiên bạn sẽ phải bỏ ra lượng lớn thời gian và công sức để thực hiện. Nhưng nếu bạn áp dụng Smart Bidding, bạn sẽ có nhiều thời gian để tập trung vào các chiến lược cấp cao hơn để tối ưu hóa quảng cáo của mình. Bởi Smart Bidding cung cấp các công cụ báo cáo giúp bạn hiểu sâu hơn về hiệu suất đặt giá thầu của mình và giúp bạn nhanh chóng khắc phục mọi sự cố. Bao gồm các dữ liệu thông tin như:
Các trạng thái chiến lược giá thầu chi tiết cho bạn thấy những điều đang diễn ra trong phạm vi đấu thầu của bạn.
Cung cấp bản nháp chiến dịch và thử nghiệm cho các chiến dịch tìm kiếm và hiển thị giúp dễ dàng kiểm tra xem việc dùng Smart Bidding để thầu có hiệu quả hơn như thế nào so với hình thức bạn đang sử dụng hiện tại.
Khi bạn đạt được các mục tiêu CPA khác nhau trình mô phỏng giá thầu sẽ dự báo số lượng chuyển đổi mà quảng cáo của bạn có thể nhận được.
Cảnh báo và thông báo gắn cờ các vấn đề về tỷ lệ chuyển đổi và cung cấp các bước rõ ràng để khắc phục chúng.
Báo cáo hiệu suất phong phú giúp bạn dễ dàng theo dõi các thay đổi về hiệu suất trở lại các bản cập nhật cho trạng thái hoặc mục tiêu chiến lược giá thầu của bạn.
Đặt giá thầu theo thời gian thực
Khi sử dụng đặt giá thầu thủ công, bạn sẽ phải liên tục điều chỉnh giá thầu của mình để tối đa hóa chuyển đổi. Bạn sẽ theo dõi và nhìn nhận tính hiệu quả mà quảng cáo mang lại để điều chỉnh giá thầu, nhưng bạn lại quên rằng việc dựa vào hiệu suất quảng cáo là dựa vào những gì đã xảy ra, việc này đôi khi sẽ không mang lại hiệu quả cao vì những điều đã xảy ra có thể không còn phù hợp ở thời điểm hiện tại. Mặt khác, đặt giá thầu thông minh sẽ thực hiện các điều chỉnh ngay trong thời gian thực, phản ứng tức thì với hiệu suất quảng cáo và nhanh chóng thực hiện điều chỉnh.
Việc này giúp bạn không lãng phí thời gian vào quá trình theo dõi và phân tích dữ liệu để điều chỉnh giá, đồng thời quảng cáo của bạn sẽ được tối ưu hóa một cách liên tục.
4. Các tùy chọn Smart Bidding của Google
Chiến lược đặt giá thầu tự động giúp cho việc đặt giá thầu trở nên đơn giản hơn và không còn mang nặng tính phỏng đoán. Nhờ đó, bạn có thể đạt được các mục tiêu về hiệu quả hoạt động. Mỗi loại chiến lược đặt giá thầu tự động được thiết kế với các chức năng khác nhau để bạn chọn được một lựa chọn phù hợp nhất cho chiến dịch và đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra.
CPC nâng cao (ECPC)
CPC nâng cao là chiến lược giá thầu điều chỉnh giá mỗi lượt nhấp, điều này cho phép các thuật toán của Quảng cáo Google Ads thực hiện điều chỉnh giá thầu với từ khóa đặt thủ công. ECPC sẽ cố gắng giữ CPC trung bình của bạn dưới mức CPC tối đa bạn đặt (bao gồm cả các mức điều chỉnh giá thầu) khi tối ưu hóa lượt chuyển đổi.
Với CPC nâng cao, nền tảng quảng cáo Google Ads sẽ tự tăng hoặc giảm giá thầu cho một từ khóa trong một phiên đấu giá dựa trên những cú nhấp chuột mua hàng. Trước đây, thay đổi này được điều chỉnh giới hạn tăng hoặc giảm 30%. Nhưng hiện tại, quảng cáo Google Adwords có khả năng điều chỉnh mức giá ở mọi cấp độ.
Ưu điểm:
Nếu bạn chưa sẵn sàng để kiểm soát hoàn toàn các thuật toán của Google thì CPC nâng cao là một cách tốt để duy trì đầu vào trong khi bạn sử dụng các tính năng đặt giá thầu thông minh. Goole sẽ điều chỉnh giá thầu mà Google cho rằng không có khả năng chuyển đồi thành doanh số bán hàng thực tế. Đồng nghĩa rằng bạn sẽ không phải chi nhiều tiền cho các nhấp chuột có chất lượng thấp, chuyển đổi thấp.
Tiết kiệm thời gian tối ưu và đặt giá thầu cho các nhà quảng cáo.
Tăng tỷ lệ nhấp và tỷ lệ chuyển đổi cho quảng cáo
Nhược điểm:
Các kết quả phổ biến nhất của việc sử dụng thành công CPC nâng cao là việc tăng tỷ lệ nhấp chuột (CTR) và tăng tỷ lệ chuyển đổi (CVR). Thông thường, cũng có sự tăng chi phí cho mỗi cú nhấp chuột . Điều này là do thuật toán có xu hướng tăng giá thầu thường xuyên hơn việc hạ thấp giá, do đó bạn phải theo dõi tỷ lệ chuyển đổi CPC và so sánh với mục tiêu. Nếu không, bạn sẽ phải lãng phí rất nhiều chi phí.
Do CPC nâng cao có thể điều chỉnh giá thầu từ khóa một cách không giới hạn nên có khả năng là giá thầu và chi phí CPC có thể cao hơn nhiều so với lợi nhuận mà bạn nhận được. Mục tiêu của loại giá thầu này là tăng khả năng chuyển đổi, nhưng không nhất thiết phải bằng chi phí mục tiêu trên mỗi sự chuyển đổi CPA.
Nếu bạn lựa chọn đặt giá thầu thông mình thì việc kiểm tra CPC nâng cao được xem là bước đầu tiên trong việc tự động hóa giá thầu cho chiến dịch của mình. Để biết được chiến lược đặt giá thầu có đang hoạt động như mong đợi hay không thì bạn cần phải theo dõi tỷ lệ nhấp chuột CTR và tỷ lệ chuyển đổi CVR, nếu 2 tỷ lệ này đều tăng nghĩa là chiến lược của bạn đang vận hành tốt. Ngoài ra, để đảm bảo rằng hoạt động vẫn đang mang lại hiệu quả, việc bạn cần làm là theo dõi chi phí CPC và chi phí mục tiêu trên mỗi sự chuyển đổi CPA.
Tối đa hóa chuyển đổi (Maximize Conversions)
Tối đa hóa chuyển đổi – Maximize Conversions được xem là một trong những chiến lược đặt giá thầu đơn giản nhất mà Google Ads cung cấp. Sử dụng ngân sách hàng ngày tối đa mà bạn đã đặt, Google sẽ tự động chạy giá thầu của bạn để giúp bạn nhận được nhiều chuyển đổi nhất cho số tiền của mình. Nghĩa là chiến lược giá thầu khi sử dụng tùy chọn Maximize Conversions sẽ được dựa trên kết quả mục tiêu của chiến lược giá thầu. Ví dụ, ngân sách hàng ngày của bạn là 40$, Google sẽ sử dụng số tiền đó một cách hợp lý để tìm được nhiều chuyển đổi nhất. Nếu một chuyển đổi duy nhất có giá 40$, Google sẽ không đặt giá thầu cho bạn.
Điều quan trọng trong mỗi chiến dịch sử dụng Maximize Conversions là marketer phải chỉ định ngân sách hàng ngày và đó không phải là một phần của ngân sách được chia sẻ. Lý do là vì chiến lược đặt thầu này luôn cố gắng phân bổ ngân sách đều cho từng ngày trong toàn bộ chiến dịch. Nếu được bao gồm cả ngân sách chia sẻ, Maximize Conversions sẽ dùng ngân sách hàng ngày của toàn bộ nhóm chia sẻ mà không chỉ sử dụng ngân sách phân bổ riêng.
Ưu điểm:
Tùy chọn đặt giá thầu thông minh Maximize Conversions tập trung vào việc thúc đẩy lưu lượng truy cập đến trang web của bạn và mang về hiệu quả rất cao.
Maximize Conversions mang về lưu lượng truy cập khổng lồ cho website của bạn, do đó nếu bạn đang có ngân sách và kéo lưu lượng truy cập, cũng như các khách hàng tiềm năng về website thì đây là một tùy chọn lợp lý cho chiến dịch của bạn.
Chiến lược giá thầu Maximize Conversions được thiết kế để có thể có được càng nhiều chuyển đổi càng tốt dựa trên ngân sách chi tiêu hàng ngày. Sử dụng chiến lược này, bạn không phải nhập bất kỳ chi tiết nào khi thiết lập (ngoài ngân sách hàng ngày của bạn).
Tiết kiểm thời gian quản lý tài khoản quảng cáo.
Nhược điểm:
Mặc dù chiến lược giá thầu này tương đối đơn giản nhưng khi chọn phương thức đặt giá thầu này, hãy đảm bảo bạn đã kiểm tra việc đặt số tiền ngân sách hàng ngày ở mức hợp lý mà bạn sẽ sẵn sàng để chi trả để không dẫn đến lố ngân sách.
Bạn không chỉ chạy chiến lược này mà còn cần theo dõi cả tỷ lệ chuyển đổi tại chỗ. Mục tiêu của Google là tối đa hóa lượng chuyển đổi. Vì vậy nếu không bật tính năng theo dõi, thuật toán có thể sẽ đưa ra những quyết định không chính xác trong việc tìm khách hàng tiềm năng.
Khi kết thúc chiến dịch, cần kiểm tra lợi tức đầu tư của bạn để xem liệu tối đa hóa chuyển đổi có dẫn đến doanh thu sinh lời hay không. Vì Google luôn sử dụng hết toàn bộ ngân sách hàng ngày bất kể hiệu suất chuyển đổi nên lợi nhuận cuối cùng của chiến dịch vào một ngày là điều không thể đoán trước được.
Do đó, nếu bạn muốn đạt được mục tiêu lợi nhuận và mức độ hiệu quả cụ thể thì không nên sử dụng hình thức này mà có thể tham khảo hai chiến lược giá thầu Target CPA, Target ROAS bên dưới.
CPA Mục tiêu (Target CPA)
CPA Mục tiêu – Target CPA (chi phí cho mỗi lần mua) là chiến lược giá thầu hoàn toàn tự động, bạn sẽ đặt chi phí mục tiêu cho mỗi chuyển đổi và sau đó Google sẽ điều chỉnh giá thầu với mục tiêu cuối cùng là tạo ra càng nhiều chuyển đổi càng tốt tại mức CPA đó. Mỗi lượt chuyển đổi trong chiến dịch có thể có CPA trên lệch một chút, có thể cao hoặc thấp hơn CPA mục tiêu của bạn, nhưng Google sẽ cố gắng cân bằng chỉ số này xuyên suốt thời gian chiến dịch diễn ra.
Đặt giá thầu CPA mục tiêu là chiến thuật đặt thầu mà bạn có thể sử dụng nếu muốn tối đa hóa chuyển đổi bán hàng. Nếu chuyển đổi là mục tiêu chính của bạn cho chiến dịch, việc chọn mục tiêu đặt giá thầu CPA sẽ giúp bạn tập trung vào việc cố gắng chuyển đổi người dùng với mức chi phí cụ thể.
Để thúc đẩy hiệu suất chuyển đổi, Google cần có một lượng dữ liệu chuyển đổi nhất định để có thể đưa ra quyết định thông minh. Nếu bạn không có đủ số lượng chuyển đổi, thì thuật toán không thể đưa ra quyết định và chiến lược đặt thầu theo CPA mục tiêu không phải là lựa chọn dành cho bạn. Lý tưởng nhất, bạn nên có ít nhất là 30 chuyển đổi, nếu không thì là 50 trong thời gian 30 ngày trước khi thử nghiệm đặt giá thầu Target CPA. Nếu các chiến dịch của bạn không đạt được mức này thì hiệu quả mang về sẽ không cao như mong đợi.
Nếu bạn có kế hoạch sử dụng đặt giá thầu Target CPA, hãy lập kế hoạch cho một hai tuần đầu tiên để làm quen với hệ thống. Đặt Target CPA của bạn cao hơn một chút so với CPA trung bình bạn đạt được gần đây hoặc sử dụng mục tiêu CPA được đề xuất của Google để cho phép Google tìm thấy một hướng đi cụ thể, sau đó từ từ đưa nó về CPA mục tiêu của bạn.
Ưu điểm:
Tập trung vào việc tạo ra nhiều chuyển đổi nhất có thể. Nhưng cần đảm bảo không đặt CPA mục tiêu quá thấp nếu không bạn sẽ giảm hiệu suất của chiến lược này.
Có rất nhiều phép toán liên quan nếu bạn muốn tối ưu hóa giá thầu theo cách thủ công nhưng vẫn tuân theo CPA mục tiêu của mình. Và đặt giá thầu thông minh thực hiện tất cả những điều này cho bạn.
Tiết kiệm thời gian quản lý và tối ưu giá thầu cho quảng cáo.
Xác định được chính xác chi phí cho một chuyển đổi khách hàng.
Nhược điểm:
Giống với chiến lược Tối đa hoá chuyển đổi, đặt giá thầu CPA mục tiêu yêu cầu bật tính năng theo dõi chuyển đổi trong tài khoản của bạn. Nếu không thực hiện, chiến lược giá thầu này sẽ vô ích vì bạn sẽ không bao giờ biết được rằng liệu nó có thúc đẩy chuyển đổi hay không.
Target CPA chỉ có thể được đặt ở cấp chiến dịch hoặc danh mục đầu tư. Nghĩa là bạn sẽ không điều chỉnh giá thầu cho từng từ khóa được.
Các nhà quảng cáo Google Adwords có thể đặt giá thầu ở mức tối thiểu và tối đa để đảm bảo Google không điều chỉnh giá thầu qua sàn hoặc trần nhưng chỉ để sử dụng ở cấp danh mục đầu tư. Nếu mục tiêu của bạn đang hướng đến các chiến dịch riêng lẻ, các giá thầu này sẽ không có sẵn.
Nếu chiến dịch của bạn đã có CPA trung bình là 50$ trong sáu tháng qua, thì bạn không nên đặt CPA mục tiêu là 30$. Điều này sẽ giới hạn Google ngay từ bước đấu giá đầu tiên lẫn cách tối ưu về sau.
ROAS mục tiêu (Target ROAS)
Cách đặt thầu quảng cáo Google AdWords này gần giống với Target CPA, nhưng mục tiêu được thay đổi thành ROAS (Return on ads spend) – Doanh thu đạt được trên Chi phí quảng cáo bỏ ra.
Với chiến lược này, Quảng cáo Google Adwords sẽ đặt giá thầu bằng cách dự đoán số lượng chuyển đổi và giá trị chuyển đổi có thể đạt được dựa trên dữ liệu trước đó. Giá thầu sẽ được điều chỉnh theo thời gian thực để tối đa hóa giá trị chuyển đổi trong lúc cố gắng đạt được mục tiêu ROAS bạn đã đề ra theo ấp độ nhóm quảng cáo, chiến dịch hoặc danh mục đầu tư.
Cũng như Target CPA, các chuyển đổi riêng lẻ có thể có mức ROAS cao hơn hoặc thấp hơn mục tiêu của bạn và Google sẽ tự động tối ưu nhằm đạt được mục tiêu ROAS mà bạn đặt ra.
Với Target ROAS, nhà quảng cáo có thể đặt giới hạn giá thầu (tối thiểu và tối đa) ở cấp chiến dịch hoặc danh mục đầu tư đề phòng trường hợp lố chi phí. Nhưng Google cảnh báo điều này vì nó có thể làm hạn chế việc ra quyết định của hệ thống.
Khi thực hiện chiến lược ROAS mục tiêu, Google Ads sẽ đặt giá thầu của bạn để tối đa hóa giá trị chuyển đổi dựa trên lợi tức bạn muốn từ chi tiêu quảng cáo của mình. Con số này sẽ dựa trên tỷ lệ phần trăm. Ví dụ như sau:
Trong chiến dịch Quảng cáo trên Google tiếp theo, bạn muốn tạo ra 10$ cho mỗi 5$ bạn đã chi ra. Để tính toán, bạn cần làm theo công thức này:
Doanh thu ÷ chi tiêu quảng cáo x 100% = ROAS mục tiêu
Với ví dụ mình đã đưa ra, thì ta sẽ áp dựng như sau: Doanh thu $10 từ chiến dịch ÷ $5 chi tiêu quảng cáo (số nhấp chuột) x 100% = 200% ROAS mục tiêu.
Ưu điểm:
Target ROAS tập trung nhiều vào lợi nhuận hơn là chuyển đổi, điều này có nghĩa là mục tiêu kinh doanh của bạn đang được tập trung hơn rất nhiều.
Tự động hóa việc tính toán ROI, khi bạn bán nhiều sản phẩm, dịch vụ, mỗi sản phẩm/ dịch vụ có các mức giá khác nhau thì việc tính toán ROI trên các chiến dịch quảng cáo có thể sẽ gặp khó nhưng đặt giá thầu thông minh sẽ giúp bạn tự động hóa vấn đề này.
Kiểm soát được chính xác lợi nhuận trên chi phí quảng cáo.
Nhược điểm
Cần phải đảm bảo bạn có hệ thống theo dõi chuyển đổi, bao gồm cả giá trị của các chuyển đổi; cũng như dữ liệu từ quá khứ để Google có thể tự động tối ưu chiến dịch.
Đặt ROAS mục tiêu của bạn ở mức cao có thể gây ra những hạn chế ngay khi bắt đầu. Nên khởi động với mục tiêu thấp hơn một chút so với hiệu suất của bạn gần đây, sau đó từ từ nâng mục tiêu theo thời gian để đạt được mức ROAS tối ưu.
Tối đa hóa lượt click (Maximize Clicks)
Chiến lược này rất giống với Maximize Conversions nhưng nó sẽ tập trung vào các cú nhấp chuột. Với Maximize Clicks, Google sẽ làm việc để có được nhiều lượt click nhất có thể với mức ngân sách hàng ngày của bạn. Nếu có càng nhiều lượt click của người dùng, bạn sẽ càng nâng cao được độ nhận diện thương hiệu của mình.
Chiến lược này sẽ rất tuyệt nếu bạn đang cố gắng tăng lượng truy cập cho trang web của mình nhằm xây dựng thương hiệu hoặc xây dựng danh sách khách hàng tiềm năng, hoặc nếu bạn đang có tỉ lệ chuyển đổi rất tốt và đang muốn cải thiện lượng truy cập ở phần phễu trước đó.
Ưu điểm:
Phù hợp với các website muốn tăng lượng truy cập hoặc tăng dữ liệu.
Với một ngân sách eo hẹp, bạn vẫn có thể chạy được chiến lược này. Cách tốt nhất là đặt giá thầu CPC tối đa và sau đó theo dõi CPC trung bình. Đây cũng là một ưu điểm của Maximize Clicks vì bạn có thể đặt giới hạn CPC tối đa để giúp giảm CPC trong khi Google sử dụng ngân sách hàng ngày.
Nhược điểm:
Cần đặt CPC ở mức tối đa và cũng luôn chú ý đến CPC tối đa trung bình của bạn. Vì Google sẽ làm việc để có được nhiều lần nhấp nhất có thể và chi tiêu hết toàn bộ ngân sách hàng ngày, ngay cả khi các nhấp chuột đắt hơn nhiều so với bình thường.
Cần thường xuyên kiểm tra hiệu suất CPC mà chiến lược giá thầu này đang tạo (và bất kỳ KPI nào khác bạn hiện có) để đảm bảo nó vẫn đáp ứng mục tiêu và không mắc lỗi.
Chia sẻ hiển thị mục tiêu (Target Impression Share)
Với Chia sẻ hiển thị mục tiêu – Target Impression Share, marketer sẽ đặt mục tiêu phần trăm mục tiêu hiển thị cho các quảng cáo của mình giống như cách bạn đặt CPA mục tiêu cho chiến lược đặt giá thầu.
Tính năng này được bổ sung gần đây và giúp cho nhà quảng cáo có nhiều sự lựa chọn hơn khi tìm kiếm vị trí đặt bài viết của mình. Tùy thuộc vào sở thích của bạn, Google sẽ dự đoán giá thầu ứng với từ khóa. Google sau đó sẽ điều chỉnh giá thầu của bạn để đạt được vị trí mục tiêu.
Có ba tùy chọn vị trí bạn phải đặt giá thầu với Target Impression Share:
Đầu trang tuyệt đối
Đầu trang
Bất cứ nơi nào trên trang
Mỗi một vị trí này sẽ cho thuật toán Google biết mức độ ưu tiên của bạn, từ đó sẽ điều chỉnh giá thầu cho phù hợp. Các nhà quảng cáo cũng có thể đặt giá thầu CPC tối đa với Target Impression Share để hạn chế vượt ngân sách, nhưng Google cũng cảnh báo về việc đặt hiệu suất quá thấp và tiết kiệm.
Ưu điểm:
Giúp quảng cáo của bạn đạt vị trí cao hơn quảng cáo của đối thủ.
Nhược điểm:
Chiến lược này có khả năng làm tăng giá thầu của bạn vượt trên mức lợi nhuận nếu bạn không cẩn thận. Chiến lược này tập trung vào nhận thức và khả năng tiếp cận, nên sẽ có sự hạn chế nếu bạn đang tìm kiếm mục tiêu bán hàng hoặc sinh lợi nhuận.
Giá thầu CPC luôn phải đặt tối đa để đảm bảo bạn không phải trả quá nhiều cho bất kỳ nhấp chuột riêng lẻ nào.
Cần theo dõi các CPC và kết quả hoạt động để kiểm tra chiến lược đặt giá thầu này đạt được mục tiêu đề ra.
Vị trí mục tiêu trên trang tìm kiếm (Target Search Page Location)
Đặt giá thầu TSPL (Target Search Page Location – Vị trí mục tiêu trên trang tìm kiếm) là chiến lược cho phép Google tự động điều chỉnh giá thầu của để quảng cáo của bạn luôn được hiển thị ở trên kết quả trên trang đầu tiên của Google hoặc ở đầu trang đầu tiên của Google ( vị trí từ 1-4 ).
Phần cài đặt sẽ cho phép điều chỉnh các chế độ hiển thị ở đầu trang hoặc trang đầu tiên, tự động đặt giá thầu, giới hạn giá thầu CPC thủ công cũng như cài đặt từ khóa chất lượng thấp.
Ưu điểm:
Chế độ cài đặt từ khóa chất lượng thấp cho phép bạn loại trừ các từ khóa có điểm chất lượng dưới 4. Vì việc tăng giá thầu của những từ khóa này để đạt được một vị trí nhất định có thể tạo ra tác động lớn hơn các từ khóa có điểm chất lượng cao hơn do tính toán xếp hạng quảng cáo.
Tiết kiệm thời gian đặt giá thầu cho từng phiên đấu giá để quảng cáo đạt được vị trí ở trang đầu tiên.
Nhược điểm:
Chiến lược này được thiết kế để đạt được số lần hiển thị quảng cáo ở một vị trí nhất định trên trang kết quả, nhưng không hướng đến mục tiêu bán hàng hoặc chuyển đổi do đó không phù hợp với các hoạt động bán hàng.
Chia sẻ vượt mục tiêu (Target Outranking Share)
Target Outranking Share tương tự như Target Search Page Location ở chỗ tập trung vào vị trí của quảng cáo hơn là kết quả thực tế của vị trí đó (CPCs, CTR, CPA,…). Cách đặt thầu quảng cáo Google AdWords này được thiết kế để giúp nhà quảng cáo được xếp hạng cao hơn trong kết quả tìm kiếm so với đối thủ.
Khi quảng cáo của bạn và quảng cáo của đối thủ cạnh tranh cùng hiển thị, Google sẽ tăng giá thầu của bạn để quảng cáo của bạn xếp hạng cao hơn quảng cáo của họ. Google cũng sẽ hiển thị quảng cáo của bạn khi đối thủ cạnh tranh của bạn không hiển thị để mang lại cho bạn độ nhận diện về thương hiệu tốt hơn.
Ưu điểm:
Với Target Outranking Share, bạn cần chỉ định tên miền bạn muốn xếp vị trí hiển thị vượt trội và tỷ lệ phần trăm của các phiên đấu giá mà bạn muốn vượt qua. Điều quan trọng cần lưu ý là chiến lược này có thể hoặc không thể làm gia tăng thứ hạng quảng cáo chung. Bởi vì nó chỉ tập trung vào một tên miền chứ không phải tất cả các tên miền trong phiên đấu giá.
Phù hợp cho các chiến dịch quảng bá thương hiệu, đưa thông điệp đến một nhóm người
Nhược điểm:
Sử dụng Target Outranking Share có thể gây ra cuộc chiến giữa bạn và tên miền của đối thủ nếu họ cũng muốn vượt qua bạn. Cuộc chiến đấu thầu này có thể thúc đẩy CPC cho cả hai bên, cũng có khả năng khiến các kết quả hiển thị quảng cáo không có lợi. Người chiến thắng duy nhất trong cuộc chiến đấu thầu này không ai khác đó là Google.
Chi phí cho một nghìn lần hiển thị có thể xem được – Cost per Thousand Viewable Impressions
Chi phí cho một nghìn lần hiển thị có thể xem được – Cost per Thousand Viewable Impressions (vCPM) là cách đặt thầu dành riêng cho các quảng cáo hiển thị, được thiết kế để các marketer đấu thầu khi quảng cáo được hiển thị ở những vị trí có thể nhìn thấy trên Mạng Hiển thị của Google.
Ưu điểm:
Đặt giá thầu vCPM là tốt nhất nếu bạn đang mở rộng độ phủ cho thương hiệu của bạn và muốn đưa thông điệp của bạn đến nhiều người hơn.
Nhược điểm:
Google sẽ tìm cách tối đa số lần hiển thị có thể xem mà quảng cáo Google Adwords của bạn. Điều này có thể gây ra phản tác dụng khi khách hàng cảm thấy ngộp và phiền vì gặp bắt gặp quảng cáo của bạn quá nhiều.
Không phải tất cả các hiển thị có thể xem được đều tạo ra kết quả như nhau. Cũng giống như bất kỳ chiến dịch hiển thị nào khác, điều quan trọng là bạn phải theo dõi báo cáo vị trí của mình để đảm bảo bạn không hiển thị trên các trang web không mong muốn.
Chỉ được dành riêng cho các quảng cáo hiển thị. Loại đặt giá thầu này đặt chi phí tối đa của bạn trên 1.000 lần hiển thị có thể xem.
5. Chọn chiến lược Google Ads Smart Bidding
Như bạn thấy đấy, Google Ads cung cấp nhiều chiến lược giá thầu được chỉnh cho phù hợp với các loại chiến dịch khác nhau. Tùy thuộc vào việc chiến dịch của bạn đang muốn tập trung vào tỷ lệ click, hiển thị, chuyển đổi hay số lượt xem, bạn sẽ lựa chọn chiến dịch phù hợp nhất cho mình. Sau đây mình sẽ hướng dẫn bạn cách sử dụng mục tiêu quảng cáo để chọn chiến lược giá thầu phù hợp.
Mỗi một chiến lược giá thầu sẽ phù hợp cho các loại chiến dịch và mục tiêu quảng cáo khác nhau:
Nếu bạn muốn khách hàng thực hiện một hành động trực tiếp trên website và bạn đang sử dụng theo dõi chuyển đổi thì tốt nhất bạn nên tập trung vào chuyển đổi.
Nếu bạn muốn tạo lưu lượng truy cập vào trang web của mình, thì việc tập trung vào tỷ lệ click là điều cần thiết. Đặt giá thầu chi phí mỗi nhấp chuột (CPC) sẽ phù hợp cho chiến dịch của bạn.
Nếu bạn muốn tăng nhận thức về thương hiệu và không thúc đẩy lưu lượng truy cập đến trang web của bạn thì việc tập trung vào hiển thị sẽ là chiến lược phù hợp cho bạn. Bạn có thể sử dụng đặt giá thầu chi phí mỗi nghìn lần hiển thị có thể xem (vCPM) để đặt thông điệp của bạn trước mặt khách hàng. Bạn cũng có thể sử dụng chiến lược vị trí mục tiêu trên trang tìm kiếm hoặc chia sẻ vượt mục tiêu để tối đa hóa khả năng hiển thị.
Khi chạy quảng cáo video và cần tăng lượt xem hoặc tương tác, bạn có thể sử dụng đặt giá thầu giá mỗi lần xem (CPV) hoặc giá mỗi nghìn lần hiển thị (CPM).
Nếu chạy quảng cáo video và mục tiêu là tăng cân nhắc sản phẩm hoặc thương hiệu, bạn có thể sử dụng giá mỗi lần xem (CPV).
Tùy chọn Google Ads Smart Bidding tập trung vào chuyển đổi:
Dưới đây là bốn chiến lược Đặt giá thầu thông minh mà bạn có thể sử dụng.
Đặt giá thầu CPA: Bạn có thể sử dụng CPA mục tiêu để giúp tăng chuyển đổi trong khi nhắm mục tiêu giá mỗi chuyển đổi (CPA) cụ thể.
ROAS mục tiêu: Bạn có thể sử dụng ROAS mục tiêu để giúp tăng giá trị chuyển đổi trong khi nhắm mục tiêu lợi tức mục tiêu trên chi tiêu quảng cáo (ROAS) cụ thể.
Tối đa hóa số chuyển đổi: Nếu bạn muốn tối ưu hóa cho chuyển đổi, nhưng chỉ muốn chi tiêu toàn bộ ngân sách thay vì nhắm mục tiêu CPA cụ thể, bạn có thể sử dụng tối đa hóa số chuyển đổi.
Chi phí mỗi nhấp chuột nâng cao – ECPC: Nếu bạn muốn tự động điều chỉnh giá thầu thủ công để cố gắng tối đa hóa chuyển đổi, bạn có thể sử dụng ECPC. Đây là tính năng tùy chọn mà bạn có thể sử dụng với đặt giá thầu CPC thủ công.
Tùy chọn Google Ads Smart Bidding tập trung vào các hiển thị:
Nếu muốn tập trung vào số lượt hiển thị, bạn có thể thử một trong các chiến lược giá thầu sau để giúp tối đa hóa khả năng hiển thị.
Vị trí mục tiêu trên trang tìm kiếm: Đây là chiến lược giá thầu tự động để giúp tăng khả năng quảng cáo của bạn xuất hiện ở đầu trang hoặc trên trang đầu tiên của kết quả tìm kiếm.
Chia sẻ vượt mục tiêu: Đây là chiến lược giá thầu tự động cho phép bạn chọn miền bạn muốn nâng thứ hạng để quảng cáo của bạn được hiển thị bên trên quảng cáo của miền đó. Bạn có thể đặt tần suất bạn muốn nâng thứ hạng và Google Ads sẽ tự động đặt giá thầu Tìm kiếm của bạn để giúp bạn đạt được mục tiêu đó.
Giá mỗi nghìn lần hiển thị (CPM): Với chiến lược giá thầu này, bạn sẽ thanh toán dựa trên số lần quảng cáo của bạn được hiển thị mà bạn nhận được trên Google.
Giá mỗi nghìn lần hiển thị có thể xem (vCPM): Đây là chiến lược đặt giá thầu thủ công bạn có thể sử dụng nếu quảng cáo của bạn được thiết kế để nâng cao khả năng nhận diện thương hiệu, nhưng không nhất thiết phải tạo ra nhấp chuột hoặc lưu lượng truy cập.
Tùy chọn Google Ads Smart Bidding tập trung vào số lượt xem hoặc tương tác:
Nếu bạn chạy quảng cáo video, bạn có thể sử dụng đặt giá thầu chi phí trên mỗi lần xem (CPV). Với đặt giá thầu CPV, bạn sẽ thanh toán cho các lượt xem video và các tương tác video khác, chẳng hạn như các lần nhấp chuột vào kêu gọi hành động (CTA), thẻ và biểu ngữ đi kèm. Bạn chỉ cần nhập giá cao nhất bạn muốn trả cho một lượt xem trong khi thiết lập chiến dịch video TrueView của mình
6. Những hạn chế khi sử dụng Google Ads Smart Bidding
Các tùy chọn đặt giá thầu thông minh của Google ngày càng được cải thiện và có thể sẽ trở thành một công cụ mạnh mẽ cho các nhà làm quảng cáo nếu chúng được sử dụng đúng cách. Tuy nhiên bất kỳ công cụ nào cũng sẽ có ưu điểm và hạn chế riêng, do đó bạn cần phải lưu ý rằng nếu không có khối lượng dữ liệu đủ lớn và phù hợp thì việc đặt giá thầu thông minh sẽ không mang đến hiệu quả như mong đợi.
Ví dụ: Đối với chiến lược CPA mục tiêu, Google khuyên bạn nên sử dụng chiến lược này cho các chiến dịch đã có ít nhất 30 chuyển đổi trong 30 ngày qua. Nhưng để thực sự đạt được lợi ích khi đặt giá thầu thông minh thì bạn cần phải có hàng trăm chuyển đổi.
Điều đó cũng đồng nghĩa rằng, đặt giá thầu thông minh chỉ thật sự hiệu quả khi các chiến dịch của bạn tương đối mạnh và vững chắc. Nếu bạn là người mới chạy Google Ads và bạn chưa có nhiều kinh nghiệm thì đặt giá thầu thông minh sẽ không phải là lựa chọn phù hợp cho bạn. Bạn nên thử nghiệm các hình thức đặt giá thầu thủ công cho đến khi bạn đã có nguồn dữ liệu đủ mạnh và sẵn sàng để chuyển sang hình thức thầu thông minh.
Chiến lược giá thầu tự động trong Quảng cáo Google Ads là một cách rất hiệu quả để tiết kiệm thời gian trong khi tận dụng các thuật toán để tối ưu hóa tài khoản. Nhưng chỉ khi chúng được đánh giá và lựa chọn một cách khôn ngoan.
Mỗi một chiến lược được đề cập trên đây có thể được ứng dụng trong bất kỳ tài khoản nào, nhưng chỉ khi marketer nắm rõ được mức độ phù hợp giữa chúng với mục tiêu của doanh nghiệp của mình. Bạn cần phải nhớ rằng không có chiến lược nào là giải pháp phù hợp với tất cả và bạn sẽ phải liên tục theo dõi và tối ưu để chắc rằng mọi thứ vẫn đang trong tầm kiểm soát và đúng với mục tiêu đã đề ra.
7. Chia sẻ cách phân tích từ khóa hiệu quả
Ngoài ra, để đến được bước đặt giá thầu tự động thì bạn cần phải phân tích và đưa ra những từ khóa cho chiến dịch của mình. Chính vì vậy, mà FFF muốn chia sẻ thêm cho bạn công cụ phân tích từ khóa sau:
Hệ thống sẽ gợi ý 3 nhóm từ khóa khác nhau cho bạn lựa chọn bao gồm:
Từ khóa chính: là những từ khóa giống hoặc có liên quan mật thiết đến từ khóa mà bạn đã tìm kiếm
Từ khóa liên quan: là những từ khóa gần giống với đối sánh cụm từ của từ khóa mà bạn đã tìm kiếm
Từ khóa mở rộng: là những từ khóa mở rộng được đề xuất từ trí thông minh nhân tạo (AI) của FFF
Bạn sẽ biết chi tiết thông tin từng từ khóa thông qua các mục: Có Domain, KR, Question, KL, Trend, KD, KC, Min CPC, Max CPC
Có Domain: Với công cụ Keywordplanner.vn, giúp bạn kiểm tra xem từ khóa đó có domain hay không và hiển thị cho bạn địa chỉ domain của từ khóa.
KR: công cụ cung cấp số lượng người tìm kiếm từ khóa
KL: Chiều dài từ khóa
KD: Độ khó của từ khóa này đối với SEOer
KC: Mức độ cạnh tranh quảng cáo Ads trên Google cho từ khóa
Min CPC, Max CPC: Đấu giá Ads thấp nhất và cao nhất của từ khóa
Như bạn đã thấy, sử dụng công cụ giúp việc phân tích từ khóa diễn ra nhanh chóng và mang đến kết quả rất trực quan. Các bước tiến hành lại vô cùng đơn giản và dễ sử dụng đúng không nào. Do đó, khi thực hiện phân tích từ khóa bạn đừng bỏ qua các công cụ phân tích từ khóa hữu ích này nhé.
Để có thể thu hút được nhiều khách hàng từ quảng cáo, bạn có thể tham khảo các bài viết:
Hướng dẫn cấu hình smart bidding – bí kíp quảng cáo ra khách 2020
Hướng dẫn lập kế hoạch quảng cáo google ads
7 yếu tố cải thiện quảng cáo đạt top 1 google
Vừa rồi là những phân tích ưu và nhược điểm của Google Ads Smart Bidding, mỗi hình thức đặt giá thầu đều sẽ có những ưu điểm và hạn chế riêng, bạn cũng có thể tạo một chiến dịch để thử nghiệm xem tùy chọn nào là phù hợp nhất cho doanh nghiệp của mình. Với những thông tin hữu ích mà bài viết mang lại, hy vọng sẽ giúp ích cho chiến dịch đặt giá thầu của bạn sắp tới. Và đừng quên đăng ký ngay tài khoản tại FFF để trải nghiệm các công cụ hữu ích khác nhé.
Đăng nhập bằng Google
Nếu bạn cần sự trợ giúp hoặc có vấn đề cần trao đổi với chuyên gia của 3F, hãy liên hệ với chúng tôi qua số hotline 0901 47 48 46 hoặc trang fanpage chính thức của FFF. Ngoài ra, hãy tham gia Cộng đồng Google AdWords Việt Nam để nhận thêm thông tin hay từ các thành viên trong cộng đồng nhé!
Tags đặt giá thầu quảng cáođặt giá thầu thông minhđặt giá thầu từ khóagoogle ads smart biddingphân tích từ khóasmart biddingtối ưu quảng cáo google
5 1 vote
Đánh giá bài viết
Subscribe
Notify of
new follow-up comments new replies to my comments
Name*
Email*
Website
Name*
Email*
Website
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments
Phân tích
Website đối thủ
Nhập vào tên miền (domain) website cần phân tích, công cụ phân tích traffic sẽ cung cấp cho bạn mọi thông tin về website
Phân Tích
Generic selectors
Exact matches only
Exact matches only
Search in title
Search in title
Search in content
Search in content
Search in excerpt
Search in posts
Search in posts
Search in pages
Search in pages
Kinh nghiệm
Chia sẻ bí kíp
Hướng dẫn dùng tool
Kinh nghiệm Facebook
Phân tích
Quảng cáo
Kinh nghiệm SEO
Xây dựng Traffic
Phân Tích
Tốc độ website
Phân tích từ khóa
Phân tích traffic website
Quảng cáo của đối thủ
Chi phí quảng cáo
Phân tích backlink
Phân tích Organic Search
Dữ liệu thị trường Việt Nam
Kinh Nghiệm
Chia sẻ bí kíp
Hướng dẫn dùng tool
Kinh nghiệm Facebook
Phân tích
Quảng cáo
Kinh nghiệm SEO
Xây dựng Traffic
Công cụ
Tốc độ website
Phân tích từ khóa
Phân tích traffic website
Quảng cáo của đối thủ
Chi phí quảng cáo
Phân tích backlink
Phân tích Organic Search
Dữ liệu thị trường Việt Nam
Ứng Dụng Mobile
Dễ dàng nhận thông báo ngay khi có khách hàng để lại thông tin thông qua ứng dụng trên thiết bị di động, giúp bạn chăm sóc khách hàng mọi lúc, mọi nơi mà không cần trực trên máy tính
Công ty 3F Solutions
Công ty TNHH 3F SOLUTIONS
Mã số thuế: 0313510457
Văn phòng: 320/9 Trường Chinh – Phường 13 – Tân Bình – Hồ Chí Minh
Trụ sở: 67/14 Đường số 3, Phường 9, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh
Tặng Khuyến Mãi AdWords 1.350.000₫
Bộ Công Cụ Tối Ưu AdWords
Công Cụ Tăng Khách
Hợp Tác Đại Lý
Chính Sách Bảo Mật
Điều khoản dịch vụ
Bộ công cụ marketing, tăng khách hàng và chốt sales @2018 fff.com.vn. Sản phẩm của công ty 3F Solutions
wpDiscuz
Insert
(...TRUNCATED) | 1614178347293.1.parquet/135067 | [object Object](...TRUNCATED) | 200 |
Alibre | Data Design VietNam
Giới Thiệu Thông Số Kỹ Thuật Phân tích bổ trợ Tin tức Tải về Hỗ trợ
Chi tiết tin tức
Tìm kiếm
SolidWorks: Ưu và nhược điểm
Ngày tạo: 15/09/2020 3:52:11 CH
Ưu điểm
SolidWorks đã thiết lập các tiêu chuẩn mô hình 3D cho CAD kỹ thuật, nhưng nó không phụ thuộc vào phả hệ của mình để thực hiện các công việc nặng nhọc. Trong suốt nhiều năm hoạt động, SolidWorks đã bổ sung một loạt các tính năng khác bổ sung và mở rộng theo nhu cầu CAD.
Công cụ mô phỏng: Có thể nói rằng các tùy chọn của SolidWorks để thử nghiệm các thiết kế đã đáp ứng nhu cầu hiện tại. Chúng cung cấp cho bạn các bài kiểm tra ứng suất lặp lại cao, các phép đo nhiệt độ và áp suất vật thể cũng như một loạt các tiêu chuẩn thực tế khác mà người ta có thể trộn và kết hợp để xem chính xác thiết kế sẽ hoạt động như thế nào trước khi mua xà đơn hoặc vít. Điều này không chỉ tiết kiệm tiền mà còn tiết kiệm thời gian xây dựng và lãng phí vật liệu - những yếu tố có giá trị trong quá trình sản xuất.
Công cụ bền vững: Nói về việc giúp đỡ môi trường, SolidWorks cũng có một công cụ bền vững xác định tác động môi trường mà một thiết kế sẽ có. Đây là một tính năng mở rộng tầm mắt quan trọng hơn bao giờ hết khi ngành công nghiệp ngày càng chịu nhiều áp lực hơn để tạo ra sản phẩm một cách hiệu quả và có trách nhiệm.
AR / VR: SolidWorks là một trong những công ty đầu tiên nhận ra lợi ích của thực tế ảo và tăng cường trong thiết kế thực tế. Công cụ này từ các bản cập nhật năm 2018 và 2019 của họ có thể được sử dụng để kiểm tra thiết kế từ mọi góc độ và kiểm tra khả năng sử dụng của nó trong nhiều môi trường và tình huống khác nhau ngoài phép toán mô phỏng tiêu chuẩn.
Đánh giá thiết kế lớn: Với SolidWorks, có rất nhiều không gian để phát triển. Bài đánh giá thiết kế lớn cung cấp sức mạnh để thiết kế, kiểm tra và tạo mô hình với hàng triệu thành phần mà không làm cạn kiệt CPU của máy tính.
Thiết kế CAM để sản xuất: SolidWorks là một hệ thống súp-to-nut, bắt đầu bằng phác thảo 2D và mô hình 3D và kết thúc bằng mô phỏng và chuẩn bị cho quá trình sản xuất.
Nhược điểm
SolidWorks cố gắng trở thành phần mềm mô hình hóa vững chắc của mọi người, nhưng đôi khi điều đó có nghĩa là phải hy sinh sức mạnh này cho điểm mạnh khác. Dưới đây là một số điểm yếu của SolidWorks có thể phá vỡ thỏa thuận cho bạn.
Không lý tưởng cho kiến trúc: Mặc dù thực tế là SolidWorks có một mô-đun phác thảo 2D đáng kinh ngạc, nó được tạo ra để phù hợp với việc chuyển đổi sang mô hình 3D và điều đó được phản ánh trong cấu trúc của nó. Chẳng hạn, không có bất kỳ công cụ nào mà các kiến trúc sư có thể sử dụng để cập nhật mã xây dựng, tỷ lệ và thiết kế tòa nhà.
Không có giấy phép miễn phí dành cho sinh viên: Không giống như Autodesk’s menagerie, SolidWorks không có giấy phép sử dụng giáo dục miễn phí (mặc dù họ có giấy phép dành cho sinh viên với chi phí giảm). Do đó, nhiều sinh viên, giáo viên và các tổ chức giáo dục phải chuyển qua SolidWorks.
Nguồn: all3dp
Phone:(+84) 028 38115290
Email :[email protected]
Địa chỉ:
Tầng 7, tòa nhà Scetpa, 19A Cộng Hòa, phường 12, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
:: FaceBook
:: LinKedIn
THÔNG TIN
Giới Thiệu
Thông Số
Phân Tích
Tin tức
Tải về
Hỗ trợ
CỘNG ĐỒNG ALIBRE
© 2019-2021 Data Design Viet Nam . Developed by Data Design Viet Nam
(...TRUNCATED) | 1614178347293.1.parquet/128654 | [object Object](...TRUNCATED) | 199.7 |
Cuộc khởi nghĩa trên quảng trường Tahrir và “đồng thuận Bắc Kinh” — Diễn Đàn Forum
Chuyển đến nội dung. | Chuyển đến mục định hướng
Các công cụ cá nhân
Tìm kiếm
chỉ tìm kiếm trong mục hiện tại
Tìm kiếm nâng cao...
Navigation
Trang chủ
Việt Nam
Thế giới
Tài liệu
Biên khảo
Sáng tác
KHKT
Dịch thuật
Nhân vật
Giọt mực, ...
Đời sống
Bạn đang ở: Trang chủ / Thế giới / Cuộc khởi nghĩa trên quảng trường Tahrir và “đồng thuận Bắc Kinh”
Info
Cuộc khởi nghĩa trên quảng trường Tahrir và “đồng thuận Bắc Kinh”
Tweet
Tweet
Cuộc khởi nghĩa trên quảng trường Tahrir và
“đồng thuận Bắc Kinh”
Alain Frachon
(Phạm Nguyên Trường dịch)
Từ nay trở đi trong các cuộc thảo luận về những vấn đề toàn cầu hóa sẽ có sự phân biệt giữa “trước” và “sau” cuộc Đại Nổi loạn [1] trên quảng trường Tahrir (Giải phóng). Và đây không phải chỉ là câu chuyện về cột mốc thời gian. Mà là một ngày đáng nhớ của một sự kiện nhiều khả năng sẽ được ghi nhận như một trong những trận chiến tư tưởng lớn của thế kỉ chúng ta: cuộc đối đầu giữa các mô hình xã hội. Lí do là như thế này.
Trong mấy năm vừa qua người ta đã nghe quá nhiều về những lời tụng ca cái gọi là “đồng thuận Bắc Kinh”. Mệnh đề hoa mĩ này là để chỉ các chế độ ủng hộ chủ nghĩa tư bản nhưng vẫn giữ hệ thống độc đảng. Nhiều người cho rằng đấy là giải pháp tốt nhất cho các nước đang phát triển, là toa thuốc giúp phát triển kinh tế và xã hội và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu hóa. Trung Quốc là thí dụ điển hình của việc thực thi một cách thành công mô hình đó, trong tuần này Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Mĩ. Dù người Trung Quốc luôn luôn kiềm chế trong việc “xuất khẩu” mô hình của mình, nhưng vẫn có những người bắt chước “đồng thuận Bắc Kinh”.
Tuy không được nói ra, nó là nguồn cảm hứng cho Vladimir Putin của nước Nga, nhiều nước châu Phi cũng không tỏ ra bàng quan trước mô hình này. Nó đã chinh phục êkip của Mahmud Ahmadinejad ở Iran. Nó được sao chép ở châu Á và nhiều khu vực khác trên thế giới. Cẩm nang thắng lợi hình như nằm trong phương châm nổi tiếng của Trung Quốc: tự do kinh doanh và chế độ độc tài. Làm thế nhất định được !. Ở Ai Cập người ta cũng đã nghĩ như thế, ít nhất là cho đến khi xảy ra vụ bất ngờ trên bờ sông Nile vào mùa đông này: cuộc Đại Nổi loạn trên quảng trường Tahrir.
Không chỉ ở các nước đang phát triển người ta mới ca ngợi “đồng thuận Bắc Kinh”. Cả ở châu Âu lẫn ở Mĩ cũng có những chuyên gia tuyên bố rằng mô hình này sẽ quyết định bộ mặt của thế kỉ tới. Mọi người đều cho rằng tác giả của câu nói này là ông Joshua Cooper Ramo, một nhà văn và cố vấn người Mĩ; ông này đã sử dụng nó vào năm 2004, coi như một đối trọng với điều được gọi là “đồng thuận Washington” vào cuối những năm 1980: hệ thống quản lí dân chủ cao nhất, tự do kinh doanh và mở cửa biên giới cho hàng hóa và tư bản ngoại quốc tràn vào – đấy là mô hình hai bên cùng thắng mà Quĩ tiền tệ quốc tế và cục dự trữ liên bang Mĩ đưa ra cho nền kinh tế của các nước đang phát triển và cho nước Nga và Đông Âu hậu-Xô Viết.
Nhưng cùng với sự phát triển của Trung Quốc, “đồng thuận Bắc Kinh” có vẻ như càng ngày càng thuyết phục hơn. Trung Quốc đã tự khẳng định như một đối thủ của Mĩ về mặt kinh tế và sắp tới là về mặt quân sự mà còn cạnh tranh với Mỹ về mặt tư tưởng nữa: TQ có “sức mạnh mềm” về chính trị là khả năng quyến rũ của mình. .
Trong các nước đang phát triển mô hình của Trung Quốc đã thắng con bài “đồng thuận Washington”: nó có vẻ dễ thích nghi hơn là nền dân chủ “phương Tây” và đã thành công hơn trong vụ đối đầu với cuộc khủng hoảng trong các năm 2008-2009 do đối thủ của mình gây ra. Nhập vào Ai Cập, “đồng thuận Bắc Kinh” thể hiện dưới dạng sau: chủ nghĩa tư bản và “mukhabarat” ( sự ngự trị của bộ máy an ninh chìm).
Độc tài chính trị phục vụ cho chủ nghĩa tư bản, trong đó nhà nước đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế, trái ngược với chế độ dân chủ và tự do kinh doanh theo cách hiểu của phương Tây… Đây là trận chiến ý thức hệ mang tầm thế kỉ. Mô hình này đối chọi với mô hình kia. Trong những trường hợp như thế bao giờ cũng có một người Mĩ đứng lên chống lại phe mình và tiên tri sự suy sụp không thể tránh khỏi của nó trong một cuốn sách giật gân. Trong trường hợp này là ông Stefan Halper.
Là một người từng làm việc trong lĩnh vực ngoại giao và là giáo sư đại học Cambridge (Anh), ông Halper cho xuất bản vào năm 2010 tiểu luận xuất sắc “Đồng thuận Bắc Kinh hay là làm sao mô hình độc tài Trung Quốc lại trở thành mô hình giữ thế thượng phong trong thế kỉ XXI”. Ý chính như sau: bằng thí dụ của mình Trung Quốc đã chứng minh rằng hệ thống độc đảng và tự do kinh doanh mà không có các quyền tự do chính trị có thể là mô hình thay thế mãnh liệt và có sức sống cho mô hình chính phủ dân cử của Mĩ.
Nhưng, sau đó một năm, những người trẻ tuổi tập trung tại quảng trường Tahrir để lớn tiếng nói lên quan điểm của mình đã làm lung lay niềm tin của giáo sư Halper và nhiều người khác. . Chẳng có gì chắc chắn rằng “đồng thuận Bắc Kinh” là thuốc trị bá bệnh . Chẳng có gì chắc chắn là nó sẽ bảo đảm ổn định chính trị trong một thời gian dài. Và cũng chẳng có gì chắc chắn là chế độ độc tài về mặt chính trị (dù nó có thúc đẩy cho sự phát triển của nền kinh tế) có thể bảo đảm hạnh phúc cho nhân dân. Những ưu điểm của nền độc tài của Ben Ali và Mubarak cũng có những giới hạn.
Muốn cho trung thực thì phải nói rằng người Trung Quốc chưa từng cuồng tín lôi kéo ai theo mô hình của họ. Họ xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ chứ không xuất khẩu tư tưởng. Cũng vì yêu cầu trung thực, cần phải thận trọng khi so sánh những nước khác nhau như là Trung Quốc và Ai Cập. Nhưng điều đó cũng không xóa bỏ ý nghĩa của sự kiện là các phương tiện truyền thông đại chúng Trung Quốc nói rất ít về cuộc Nổi loạn trên quảng trường Tahrir: người ta cấm hết, chỉ được công bố thông tin của hãng thông tấn của nhà nước mà thôi, internet cũng bị kiểm soát gắt gao không kém. Dường như chính quyền Bắc Kinh cho rằng những thanh niên Ai Cập mang theo họ một thông điệp lật đổ hơi quá rõ ràng.
Trong đất nước độc tài lớn khác, tức là nước Nga của Putin, báo chí có nhiều quyền tự do hơn. Quan điểm của báo giới về cuộc khởi nghĩa trên quảng trường Tahrir cũng không kém lý thú. “Mặc dù năm ngoái các bài phân tích chính trị đã làm ồn ào về sự mất ảnh hưởng của mô hình dân chủ phương Tây và sự gia tăng ảnh hưởng của mô hình độc tài (Trung Quốc, Singapore…), lịch sử không đứng về phía độc tài vì nó thiếu tính chính danh và có nghĩa là không ổn định rồi”, tờ The Moscow Times viết như thế trong một bài xã luận.
“Các cuộc xuống đường của người hưu trí năm 2005 và những cuộc biểu tình ở thành phố Kaleningrad hồi năm ngoái là những hồi còi cảnh báo đầu tiên đối với chế độ của Putin. (...) Hi vọng rằng Điện Cẩm Linh có thể rút ra những bài học cần thiết từ cuộc Cách mạng Hoa Nhài ở Tunisia và những vụ phản đối ở Ai Cập trước khi quá muộn”, tờ báo này viết tiếp. Bài báo kết luận một cách chán ngán : “Điện Cẩm Linh dường như tin rằng người Nga sẽ chịu đựng mãi mức sống nghèo khổ, nạn tham nhũng và sự dã man của chính quyền”. Mubarak cũng đã từng nghĩ về người Ai Cập như thế ?
Alain Frachon
Báo Le Monde 18.2.2011
Nguồn: Blog Phạm Nguyên Trường
Bản gốc : Révolte de la place Tahrir et "consensus de Pékin"
Chú thích:
[1] Tác giả dùng từ “Grande Révolte” (cuộc nổi loạn lớn), nói lên tính chất « tự phát », ít chuẩn bị của sự kiện này, mà không dùng « Insurrection », như « Khởi nghĩa » của tiếng Việt, để chỉ một cuộc nổi dậy có chuẩn bị nhằm lật đổ chính quyền [dù mục tiêu này cũng dần dần được khẳng định, và thực ra dùng « khởi nghĩa » cũng không sai lắm đứng về mặt đánh giá phong trào, nhưng đây là vấn đề tôn trọng nguyên tác].
Các thao tác trên Tài liệu
In trang này
Các số đặc biệt
Giai Phẩm Xuân Giáp Ngọ
Giai Phẩm Xuân Ất Mùi
Vĩnh Sính 1944 - 2014
Với thời-gian, Hoàng-Cầm
Phong Hoá - Ngày Nay
Giai Phẩm Xuân Quý Tỵ
Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Start
Stop
Không nên bỏ qua
Văn hóa - Nghệ thuật
Sách, văn hóa phẩm
Tranh ảnh
Nối kết chọn lọc
Danh sách một số trang mạng đáng chú ý
Ủng hộ chúng tôi - Support Us
Kênh RSS
Để bạn đọc tiện theo dõi các tin mới, Diễn Đàn Forum cung cấp danh mục tin RSS :
www.diendan.org/DDF-cac-bai-moi/rss
Trang này được phát hành theo Giấy phép Creative Commons BY-NC-ND 3.0 France.
Copyright © 2006 by Dien Dan Forum, BP 50, 92340 Bourg-La-Reine, France. | [email protected]
Sơ đồ Hệ thống
Liên hệ
Thể lệ gửi bài
Contributeurs
(...TRUNCATED) | 1614178347293.1.parquet/124665 | [object Object](...TRUNCATED) | 199.6 |
Hạn chế của phương pháp quy hoạch truyền thống - Bài...
Trang chủ
Giới thiệu
Tin tức
Tin tiêu điểm
Góc tư vấn
Thư viện
Tiêu chuẩn quy phạm
Sách In - Giáo trình biên soạn - Tạp chí
Báo cáo - Tài liệu hội thảo
Tài liệu học tập
Thư viện định hình
Đồ án quy hoạch
Bản đồ khảo sát
Video xây dựng
Hướng dẫn sử dụng
Yêu cầu tài liệu
Liên hệ
Tin mới
Prev Next
Sức lan tỏa các dự án giao thông vốn ODA Nhật Bản
Những nơi cất của cải ngay giữa nhà mà người lạ khó biết
Quy hoạch TP.HCM đến năm 2025: Bốn tuyến đường trên cao, sáu tuyến điện ngầm và 19 cầu vượt sông
Ý tưởng thiết kế: “Vùng đất sinh thái” / Nhóm kiến trúc sư AETER
Phát triển hệ thống đô thị Việt Nam trong thời kỳ mới
Thí điểm hạn chế môtô, xe máy ở Hà Nội và TP HCM
Bộ văn bản dùng cho thiết kếquy hoạch nông thôn mới
Thiết kế & vật liệu xây dựng nhà vùng gió bão
Trang chủ › Chuyên mục › Quy hoạch
Hạn chế của phương pháp quy hoạch truyền thống - Bài học từ làng ven đô An Hòa
Khu trung tâm xã An Hòa, thành phố Biên Hòa (Đồng Nai), trông bề ngoài không khác gì bao làng ven đô khác: cảnh quan vùng nông thôn đang biến mất dần sau những dãy nhà mọc lên chen chúc trong khi hạ tầng đô thị vẫn chưa hình thành.
cũng giống như bao khu dân cư khác, An Hòa đã được “phủ sóng” quy hoạch bằng một đồ án tỷ lệ 1/2000 được phê duyệt từ năm 2000 nay trở thành rào cản lớn nhất cho sự phát triển của làng. Sự giàu có về lịch sử và tầm quan trọng trong tương lai Biên Hòa của ngôi làng này đặt ra những thách thức không thể giải quyết bằng phương pháp quy hoạch truyền thống.
Hình 1 - Vị trí khu trung tâm xã An Hòa trong bản đồ quy hoạch chung thành phố Biên Hòa (hoa gió trong quy hoạch chung như trên bản đồ là không chính xác).
Lịch sử & Hiện trạng
Xã An Hòa trước kia thuộc huyện Long Thành và nay thuộc thành phố Biên Hòa. Khu trung tâm xã là một khu vực có vị trí chiến lược ở cửa ngõ của thành phố Biên Hòa và thành phố Hồ Chí Minh (hình 1). Khu vực này do đó chịu sức ép rất cao của quá trình đô thị hóa. Công nhân và những người buôn bán tự do tạm trú với số lượng lớn tạo ra áp lực về nhà ở và hạ tầng đô thị lên một khu vực định cư lịch sử.
Trung tâm của xã An Hòa xưa có tên gọi là làng Bến Gỗ, một trong những điểm định cư đầu tiên của người Việt khi khai phá Biên Hòa và toàn vùng Đông Nam Bộ. Cùng với người Việt bản địa, nhóm người Hoa đầu tiên định cư ở vùng Đồng Nai đã sớm lập nên chợ Bến Gỗ cùng với thương cảng Cù Lao Phố, chợ Bến Cá, và chợ Dinh (nay là chợ Biên Hòa). Những khu chợ ra đời rất sớm này đã mở ra thị trường giao lưu hàng hóa giữa cư dân trong vùng và cả với thương nhân nước ngoài.
Khu vực Bến Gỗ - trung tâm xã An Hòa hôm nay vẫn còn nhiều công trình lịch sử và tôn giáo đa dạng. Đình An Hòa, một trong những ngôi đình đầu tiên của Đông Nam Bộ, là di tích cấp quốc gia đã được trùng tu vào năm 2009. Không còn giữ vai trò thương mại trọng yếu, chợ Bến Gỗ ngày nay cùng với đền thờ Quan Công (hình 2) vẫn mang những nét kiến trúc tiêu biểu của một trung tâm thương mại Trung Hoa và là nơi lưu trữ những ký ức của thời khai phá đất Nam Bộ. Trong khu vực còn có một nhà thờ Cao Đài có quy mô lớn và kiến trúc nổi bật (hình 3), một nhà thờ Tin Lành và một ngôi chùa nhỏ.
Hình 2 - Mặt tiền đền thờ Quang Công.
Hình 3 - Nhà thờ đạo Cao Đài.
Bên cạnh các công trình tôn giáo và văn hóa, khu vực cũng tập trung nhiều công trình hành chính và giáo dục bao gồm trụ sở UBND xã An Hòa, một trường tiểu học và hai trường cấp 2 phục vụ cộng đồng địa phương. Là vùng đất ven đô đang trong quá trình đô thị hóa, đất ở đã chiếm gần 50% tổng diện tích đất đai trong khu vực nghiên cứu (số liệu 12/2006). Phần lớn công trình nhà ở trong khu vực đều đã được xây dựng bán kiên cố hoặc kiên cố, tập trung mật độ cao dọc theo tuyến đường chính của khu vực (hình 4). Đường giao thông hiện có chủ yếu là đường đất được hình thành trong quá trình sinh sống của người dân (hình 5). Trục chính của của khu vực nghiên cứu hiện đã được trải nhựa và lắp hệ thống thoát nước. Cuối con đường này, một cây cầu mới đã được xây dựng để bắc qua cù lao Long Hưng, nơi đang triển khai dự án khu đô thị mới AquaCity do một liên doanh thực hiện. Sông Bến Gỗ là một yếu tố cảnh quan quan trọng trong khu vực nghiên cứu. Dòng sông ngày càng bị bồi lắng bởi phù sa sông Đồng Nai và do đó mất đi vai trò giao thông như từng có trong lịch sử. Đất nông nghiệp vẫn còn chiếm 40% tổng diện tích đất mặc dù bị phân tán trong khu vực. Đây là những diện tích đất nông nghiệp cuối cùng ở phía Tây xã An Hòa, nơi mà phần lớn đất đai đã được người dân tự chuyển đổi mục đích hoặc nhà nước giao cho các chủ đầu tư để triển khai các dự án bất động sản.
Hình 4 - Trục đường chính của khu vực khi chưa dải nhựa.
Hình 5 - Ảnh vệ tinh thể hiện toàn bộ khu vực nghiên cứa của quy hoạch. Quy hoạch được phê duyệt năm 2000 chỉ giới hạn trong khu vực trung tâm đã đô thị hóa.
Quy hoạch cải tạo
Tâm sự của một người dân An Hòa về tác động của việc mất đất cho các dự án bất động sản trên Diễn đàn Nông nghiệp Việt Nam (agriviet.com):
… Người nông dân quê tôi, họ không cần một khu du lịch hoành tráng, họ chỉ cần đất, cần những đám lúa, mảnh vườn, ngôi nhà đã gắn với cuộc đời họ bao đời nay, giờ họ biết tìm đâu? Làng cổ Bến Gỗ luôn sôi động với nhiều nét đẹp văn hóa lễ hội từ bao đời nay hình như đang vẫy vùng trong cơn lốc quy hoạch của thời kỳ đổi mới?
Năm 1999, một quy hoạch tỷ lệ 1/2000 cho khu vực này đã được thực hiện và được phê duyệt bởi UBND tỉnh một năm sau đó. Quy hoạch này dựa trên rất ít hiểu biết về thực trạng địa phương. Thay vào đó, đồ án áp dụng máy móc các tiêu chuẩn quy hoạch vào một khu dân cư hiện hữu và thiết kế một hệ thống đường giao thông ô bàn cờ phá vỡ hoàn toàn cấu trúc hiện hữu của làng An Hòa. Cho rằng hiện trạng là một môi trường sống kém hấp dẫn, đồ án đưa ra một quy hoạch xây dựng xa vời thực tế, không có sự tham gia của người dân và dựa hoàn toàn vào nguồn lực nhà nước để cải tạo đô thị. Chớ trêu hơn nữa, bản quy hoạch này trở thành vật cản cho sự phát triển của khu vực khi đặt rất nhiều các công trình vào diện giải tỏa bao gồm cả trụ sở xã An Hòa (hình 6). Không thể thực hiện, đồ án trở thành quy hoạch treo, người dân không thể cải tạo nhà ở và bản thân trụ sở chính quyền không thể nâng cấp, mở rộng dù đã được duyệt kinh phí. Kể cả khi nguồn vốn nhà nước cho phép thực hiện một dự án như thế này hoặc giao cho nhà đầu tư tư nhân thực hiện như một dự án bất động sản, đời sống của rất nhiều gia đình sẽ bị đảo lộn, mối quan cộng đồng hình thành nhiều năm và cả những dấu tích lịch sử và hồn nơi chốn sẽ bị xóa bỏ (hình 6). Hơn thế nữa, sau khi xây dựng xong, rất nhiều người cư dân bao gồm cả công nhân và lao động phổ thông tạm trú trong khu vực sẽ không có cơ hội sinh sống trong khu vực này bởi điều kiện sống mới sẽ làm tăng giá trị bất động sản ở nơi đây.
Hình 6 - Sử dụng đất và mạng đường hiện hữu tại khu vực trung tâm xã An Hòa.
Vị trí chiến lược
Bên cạnh bài toán cải tạo, khu trung tâm xã An Hòa còn có một vị trí chiến lược trong tương lai phát triển của toàn thành phố Biên Hòa mà cả đồ án quy hoạch trung tâm làng An Hòa và thành phố Biên Hòa năm 2005 đều đã không đề cập. Vị trí này có được nhờ sự xuất hiện của hai dự án quan trọng: ga đường sắt mới của Biên Hòa và quần thể khu đô thị mới AquaCity và Waterfront tiếp giáp khu vực về phía Nam.
Ga đường sắt mới của Biên Hòa là dự án nằm trong kế hoạch xây dựng tuyến đường sắt mới tránh thành phố đồng thời là tuyến đường sắt mang 3 chức năng quan trọng (hình 7):
Kết nối thành phố Hồ Chí Minh với Biên Hòa và sân bay quốc tế Long Thành – Kết nối liên đô thị;
Kết nối thành phố Hồ Chí Minh với thành phố Vũng Tàu – Kết nối vùng;
Kết nối thành phố Hồ Chí Minh với hệ thống đường sắt quốc gia và Hà Nội – Kết nối quốc gia.
Hình 7 - Các công trình bị dỡ bỏ theo quy hoạch vì nằm trong chỉ giới mở rộng đường.
Hình 8 - Mạng đường theo quy hoạch (màu đen) và hiện trạng (màu đỏ).
TOD - Phát triển hỗ trợ giao thông công cộng: được định nghĩa là sự phát triển đô thị trong phạm vi 400 - 800m (tương đương 5 - 10 phút đi bộ) xung quanh các nhà ga tàu điện hoặc đường sắt. Các đặc điểm cơ bản của khu vực phát triển này thường là mật độ cao, đa dạng về sử dụng đất (bao gồm nhà ở, công trình giáo dục, thể thao, thương mại và văn phòng), có thiết kế hạ tầng và công trình thân thiện với người đi bộ. TOD được thiết kế để tận dụng một cách tối đa các phương tiện giao thông công cộng, nhằm thúc đẩy sự phát triển của thành phố, đồng thời vẫn cân bằng được lợi ích của cộng đồng. Trung tâm của những khu vực này thường có: ga tàu điện, trạm xe buýt... và hệ thống các dịch vụ thương mại, công nghiệp, văn phòng... sẽ được thiết lập xung quanh gọi là các điểm TOD.
TOD ở Trung Quốc: Mô hình TOD không lạ lẫm ở châu Á. Tokyo và Singapore được coi là chuẩn mực thành công của mô hình này trên thế giới. Phát triển sau, Trung Quốc nay cũng nỗ lực kết hợp phát triển đô thị với giao thông công cộng. Có vị trí giống Biên Hòa, thành phố Thường Châu (Changzhou), đô thị 2 triệu dân, nằm ở cửa ngõ Thượng Hải và trên tuyến đường sắt huyết mạch Bắc kinh – Thượng Hải. Ga trung tâm Thường Châu nằm ngay khu trung tâm thành phố với quy mô diện tích 84.000 m2 và đang được tiếp tục mở rộng. Ngoài ra thành phố cũng lập quy hoạch chi tiết để phát triển khu vực xung quanh nhà ga (hình 8) với quy mô 140 hecta nhằm tăng mật độ dân cư và các hoạt động thương mại diễn ra trong khu vực.
Bên cạnh 3 phạm vi phục vụ này, bản thân ga Biên Hòa sẽ là nhà ga trung tâm mới của thành phố Biên Hòa và là một mắt xích quan trọng trong hệ thống đường sắt nội đô của thành phố này trong tương lai cũng như toàn vùng đô thị Đông Nam Bộ vốn phát triển mạnh. Với tầm nhìn này, ga Biên Hòa sẽ là một trong những nhà ga quan trọng bậc nhất trong vùng và cần phải được quy hoạch nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển hành khách với cả ba chức năng như trên. Diện tích nhà ga cần được thiết kế hoặc ít nhất là chuẩn bị diện tích mặt bằng tương thích nhằm tích hợp các loại phương tiện khác nhau (intermodal) như đường sắt nội đô (tàu điện), xe buýt, xe buýt tốc hành (BRT). Bên cạnh đó, khu vực nằm trong bán kính đi bộ xung quanh nhà ga cần được phát triển với mật độ cao nhằm khuyến khích người dân sử dụng GTCC và nâng cao hiệu quả sử dụng đất (mô hình TOD – Transit Oriented Development) (hình 8). Tuyến đường sắt mới được triển khai phía Nam thành phố Biên Hòa sẽ song song với với tuyến hiện hữu phía Bắc. Về lâu dài, việc kết nối hai tuyến này cho phép phát triển một hệ thống đường sắt nội đô khép kín, tạo tiền đề cho tái phát triển khu vực nội thành Biên Hòa. Bên cạnh đó, việc kéo dài tuyến metro Suối Tiên – Bến Thành sẽ có thể tạo thêm một kết nối giữa thành phố Biên Hòa và thành phố Hồ Chí Minh (hình 7). Sự kết nối này sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế tại Biên Hòa đồng thời giảm tải cho thành phố Hồ Chí Minh và giảm lưu lượng xe trên xa lộ Hà Nội.
Cùng với ga Biên Hoà, việc hình thành cụm đô thị Aquacity và Waterfront sẽ tạo ra một trung tâm đô thị mới của thành phố Biên Hòa, làm tăng giá đất và thúc đẩy quá trình đô thị hóa xã An Hòa. Thiếu vắng một quy hoạch có sự tham gia của cộng đồng, có tầm nhìn xa về kinh tế, xã hội và giao thông, bức tranh tương lai của An Hòa làm sao tránh được hình ảnh lộn xộn, manh mún của bao khu dân cư phát triển tự phát hoặc phát triển theo những bản quy hoạch phi thực tế vẫn thường gặp. Làm sao để hai bên bờ sông Bến Gỗ không lặp lại bức tranh khu vực phía Nam quận 4 và quận 8 nằm tương phản bên Phú Mỹ Hưng tráng lệ?
Trong khi chưa có giải pháp để trả lời những câu hỏi trên, quy hoạch đã phê duyệt của phường Long Bình Tân giáp ranh bố trí một trạm xử lý nước thải lớn cho toàn thành phố nhưng nằm ngoài phạm vi nghiên cứu của đồ án và nằm trong … diện tích xã An Hòa, sát với khu trung tâm xã (hình 9). Một ví dụ của cách làm quy hoạch áp đặt và cẩu thả, trạm xử lý nước thải này sẽ gây khó khăn cho việc điều chỉnh quy hoạch và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân khu trung tâm xã An Hoa trong tương lai.
Hình 9 - Vị trí các tuyến đường sắt cũ và mới tại Biên Hòa.
Hình 10 - Một trong các phương án bố trí nhà ga Biên Hòa. Các phương án đang được nghiên cứu đề chỉ dành một diện tích “khiêm tốn” từ 3000 – 4000 m2 cho nhà ga trung tâm tương lai của thành phố.
Hình 11 - Mặt bằng khu vực phát triển xung quanh ga Thường Châu và mặt tiền nhà ga. Riêng khu vực nhà ga đã chiếm một diễn tích rộng hơn 8 hecta.
Hình 12 - Quy hoạch chung phường Long Bình Tân bố trí trạm xử lý nước thải nằm trong ranh giới xã An Hòa.
Các đô thị Việt Nam ngày càng đối mặt với nhiều thách thức. Những thách thức này, mặc dù có nhiều nguyên nhân khác nhau, có chuyên một nguyên nhân sâu xa là phương pháp quy hoạch lỗi thời mà chúng ta đang thực hành hàng ngày. Phương pháp này, thừa hưởng từ các nước xã hội chủ nghĩa, dựa hoàn toàn vào thiết kế kiến trúc như một công cụ để định dạng mô hình tương lai của đô thị trong kinh tế thị trường vốn là một cơ thể sống phức tạp, đa dạng và luôn biến đổi. Các thành phần quan trọng của một quá trình quy hoạch như việc xây dựng viễn cảnh đô thị với sự tham gia của người dân, dự báo dân số, kinh tế để xác định nhu cầu xây dựng mới, hay nghiên cứu tác động của sự phát triển đô thị với môi trường và hệ thống hạ tầng, đều vắng bóng hoặc được làm sơ sài. Tất cả những đặc trưng này khiến phương pháp này không thể áp dụng vào quy hoạch cải tạo đô thị khi mà sự tham gia của toàn bộ cộng đồng với vai trò là nhà đầu tư, người thực thi và giám sát dự án cũng như sự am hiểu về hiện trạng môi trường, kinh tế và xã hội được đòi hỏi tối đa. Còn khi được áp dụng máy móc trong nỗ lực “phủ sóng” quy hoạch của chính quyền, phương pháp quy hoạch cũ kỹ này vô tình tạo ra tình trạng quy hoạch “treo” làm ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống người dân và sự phát triển của địa phương.
Nhiều bản quy hoạch và nhà quy hoạch cho đến nay vẫn bị động trước những biến đổi của xã hội và thị trường, bỏ lỡ cơ hội cùng người dân kiến tạo một môi trường sống tốt hơn. Với An Hòa, cơ hội vẫn còn khi cả quy hoạch tổng thể Biên Hòa, quy hoạch chi tiết xã và thiết kế ga Biên Hòa mới vẫn còn nằm trên bàn giấy của các nhà chuyên môn./.
Theo Ashui.com
Tags
[Trở về] [Đầu trang]
Các tin khác:
• Quy hoạch giao thông đô thị - cái nhìn từ thực tiễn
• Quy hoạch phân khu: Cơ hội vàng cho đô thị lịch sử
• Phát triển hệ thống đô thị Việt Nam trong thời kỳ mới
• Quy hoạch cải tạo Paris, kiến tạo " Kinh đô ánh sáng " và cái nhìn vào Việt Nam
• Kiểm soát phát triển nhà cao tầng để giảm tải nội đô
Sự kiện
# 05.04.2020
GIAO LƯU TRỰC TUYẾN - TƯ VẤN TUYỂN SINH ĐẠI HỌC CHÍNH QUY ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC NĂM 2020 - SỐ 02
Năm nay, kỳ thi THPT quốc gia dự kiến diễn ra vào tháng 8. Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội chúc các bạn học sinh cuối cấp ôn thi thật tốt MỜI QUÝ PHỤ HUYNH VÀ CÁC EM ĐÓN XEM GIAO LƯU TRỰC...
Sự kiện
# 08.07.2019
Tuyến sinh 2019 - Khoa Kỹ Thuật Hạ tầng và Môi trường đô thị - trường Đại học Kiến trúc Hà nội
Với mức điểm thi Tốt nghiệp THPT từ 14 đến 16 điểm, các bạn vẫn hoàn toàn có thể theo học 1 trong những ngành học tốt nhất và có đầu ra tốt nhất trong lĩnh vực Xây Dựng hiện nay ở khoa ĐÔ...
Sự kiện
# 26.06.2018
Hội thảo quốc tế ''Xây dựng đô thị thông minh – Hướng đến phát triển bền vững” / AkzoNobel
Phát triển đô thị thông minh và bền vững đang là mục tiêu của rất nhiều thành phố trên thế giới. Tại Việt Nam, đã có gần 20 tỉnh, thành phố trên toàn quốc đang triển khai hoặc khởi động...
Sự kiện
# 23.06.2018
Hội thảo về sàn bê tông chất lượng cao tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh
Hội thảo “Sàn bê tông chất lượng cao – công nghệ mới nhất tại Châu Âu & Mỹ và các vấn đề áp dụng tại Việt Nam” được tổ chức bởi HOUSELINK sẽ diễn ra vào 14h00 ngày 26/06/2018 tại Khách...
Sự kiện
# 04.03.2017
Độc đáo 3 địa danh thu nhỏ trong một homestay giữa lòng Hà Nội
Ngoài các khách sạn và nhà nghỉ, nhiều du khách có xu hướng tìm đến các homestay cho kỳ nghỉ của mình.
Tài liệu mới nhất
Báo cáo tổng kết nghành Nông Nghiệp...
Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Ninh Thuận...
Quy hoạch xây dựng vùng huyện Thuận Nam...
Quy hoạch xây dựng vùng huyện Ninh Sơn...
Quy hoạch xây dựng vùng huyện Ninh...
Quy hoạch xây dựng vùng huyện Ninh Hải...
Quy hoạch xây dựng vùng huyện Bắc Ái...
Quy hoạch chung xây dựng vùng huyện...
Quy hoạch chung phát triển hệ thống đô...
Quy hoạch chung xây dựng thị trấn...
Quy hoạch chung xây dựng khu vực Phước...
Điều chỉnh quy hoạch chung lần 2 thị...
Quy hoạch chung đô thị Thanh Hải, huyện...
Quy hoạch chung thị trấn Tân Sơn huyện...
Quy hoạch chung xây dựng khu du lịch ven...
Quy hoạch chung thị trấn Phước Dân,...
Quy hoạch tổng thể hệ thống thoát...
Quy hoạch tổng thể quản lý nghĩa trang...
Góc tư vấn
Giải pháp xử lý thấm chân tường
Biệt thự phố có bể bơi làm trung tâm
Những ngôi nhà một tầng ít tiền vẫn đẹp
Lý do nên sử dụng gạch block để xây nhà
Vật liệu chống nóng... ''hót hàng''
Quy trình sơn chống thấm bạn cần biết
Xem nhiều nhất
Chi tiết gối cống tròn kích thước từ D400...
Hồ sơ mẫu bản vẽ thiết kế cấp thoát nước...
Giao thông-Bản vẽ chi tiết cấu tạo khe co, khe...
Bản vẽ chi tiết cấu tạo đế cống tròn...
Bản vẽ chi tiết cấu tạo tường chắn đá hộc
Thoát nước-Bản vẽ thiết kế chi tiết cấu...
Bản vẽ chi tiết cấu tạo các loại tường rào
Thuyết minh Báo cáo kinh tế - kỹ thuật dự án...
Bản vẽ kết cấu móng bè nhà 8 tầng
Bản vẽ chi tiết các dạng gia cố mái ta luy
Biện pháp thi công – Đường giao thông nông thôn
Thiết kế chi tiết kết cấu bó vỉa
Bản vẽ thiết kế rãnh thoát nước bê tông...
Thoát nước-Bản vẽ thiết kế kỹ thuật cống...
TCVN 4470:2012 Bệnh viện đa khoa, tiêu chuẩn...
Thoát nước-Bản vẽ chi tiết cấu tạo cống...
Bản vẽ chi tiết mái bê tông dán ngói
Tiêu chuẩn ngành 22TCN 334-2006 Thi công và nghiệm...
Video Xây Dựng
Đường hầm xuyên biển (nối châu Á – Âu)
Toàn bộ quy trình thi công Cầu xuyên qua...
Máy làm bờ, vun đất công nghệ Nhật...
Phân tích tính chịu lực của cấu kiện...
Tìm chúng tôi trên Facebook
Trang chủ
Giới thiệu
Hướng dẫn sử dụng
Yêu cầu tài liệu
Video
Liên hệ
Thư viện
Tiêu chuẩn quy phạm
Sách In - Giáo trình biên soạn - Tạp chí
Báo cáo - Tài liệu hội thảo
Tài liệu học tập
Thư viện định hình
Đồ án quy hoạch
Bản đồ khảo sát
Kết nối
Facebook
Google+
Youtube
GHI CHÚ: MỌI TÀI LIỆU TRÊN WEBSITE CHỈ MANG TÍNH CHẤT THAM KHẢO. thuvienxaydung.net sẽ không chịu trách nhiệm với bất kỳ những vấn đề nào phát sinh bởi các nội dung trên.
Đóng [X]
(...TRUNCATED) | 1614178347293.1.parquet/26910 | [object Object](...TRUNCATED) | 199.5 |
Tin Tức | Dự báo nguồn Nhân lực
Đăng nhập|Đăng ký
Trang Chủ
Giới thiệu
Giới thiệu Trung tâm
Sơ đồ tổ chức
Chức năng nhiệm vụ
Cơ Cấu Tổ Chức
Đoàn thể
Sơ đồ vị trí Trung tâm
Tin nội bộ
NGHIÊN CỨU - DỰ BÁO
Nghiên Cứu Khoa Học
Hội Thảo Nội Bộ
Thư viện csdl
Nghiệp vụ dự báo
Thư viện CSDL
Biểu mẫu tập huấn điều tra
Nhu cầu nhân lực
Trong nước
Ngoài nước
Liên Hệ
Trang chủ > HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO - VIỆC LÀM
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung ban hành Chỉ thị về tổ chức Tết Nguyên đán Tân Sửu (05/02/2021)
Dân trí - Chỉ thị số 01/CT-LĐTBXH của lãnh đạo Bộ LĐ-TB&XH về việc tổ chức Tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021 tập trung nhiều chỉ đạo mới trong công tác lao động việc làm, chăm sóc người có công và bảo trợ xã hội…
Nhấn để phóng to ảnh
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung tặng quà Tết tới người có công với cách mạng ở Bát Xát, Lào Cai. (Ảnh: Giáp Tống)
Theo đó, thực hiện chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức đón Tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021 và tăng cường phòng, chống dịch bệnh Covid-19, Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH yêu cầu Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ, Giám đốc Sở trưởng Bộ LĐ-TB&XH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quán triệt đến toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong cơ quan, đơn vị và tổ chức thực hiện nghiêm nhiều nội dung chính sau.
Về tổ chức đón Tết
Chỉ thị nêu rõ, thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ, Giám đốc Sở trưởng Bộ LĐ-TB&XH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần ban hành và chủ động triển khai Kế hoạch tổ chức công việc trong dịp Tết để đón kỳ nghỉ Tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021 theo đúng phương châm "Vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm" góp phần vào thành công chung các sự kiện trọng đại của đất nước trong năm 2021.
Thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ và cấp có thẩm quyền về việc tổ chức đón Tết; nâng cao tinh thần trách nhiệm, triển khai các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 theo hướng dẫn của Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng, chống dịch Covid-19 và của Bộ Y tế; hạn chế tập trung đông người tại các hoạt động, sự kiện không cần thiết trong dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021.
Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh Covid-19 theo thông điệp "5K", trong đó khuyến cáo thực hiện việc đeo khẩu trang khi ra đường hoặc đến nơi tập trung đông người.
Phân công công việc hợp lý, bảo đảm chất lượng, tiến độ công việc của cơ quan, đơn vị trước và sau các ngày nghỉ Tết.
Nhấn để phóng to ảnh
Ảnh: Tiến Tuấn
Giải quyết dứt điểm các nhiệm vụ có thời hạn thực hiện trong tháng 01/2021, không để chậm trễ công việc của quý I/2021, không để ảnh hưởng đến việc giải quyết những thủ tục hành chính về quyền và lợi ích của người dân, doanh nghiệp thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ, ngành trưởng Bộ LĐ-TB&XH.
Phân công cán bộ, lãnh đạo trực cơ quan, đơn vị, sẵn sàng giải quyết các công việc phát sinh trong thời gian nghỉ Tết; bảo đảm cán bộ, công chức, viên chức và người lao động nghỉ Tết theo quy định của pháp luật.
Thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc không tổ chức đi thăm, chúc Tết cấp trên và lãnh đạo các cấp; nghiêm cấm biếu tặng quà Tết cho lãnh đạo các cấp dưới mọi hình thức; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng tài sản công của cơ quan, đơn vị; không sử dụng ngân sách nhà nước, phương tiện, tài sản công trái quy định vào các hoạt động lễ hội, vui chơi giải trí,...
Xây dựng và phân công tổ chức thực hiện kế hoạch bảo đảm an ninh, an toàn công sở, phòng, chống cháy nổ; vệ sinh, trang trí cơ quan, công sở xanh, sạch, đẹp.
Về chăm lo, tặng quà các đối tượng chính sách
Cũng theo Chỉ thị, Cục Người có công, Cục Bảo trợ xã hội, Cục Trẻ em, Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam, các cơ quan, đơn vị liên quan theo chức năng, nhiệm vụ được giao, phối hợp với các địa phương tổ chức thực hiện việc rà soát, nắm bắt tình hình, thăm hỏi, chăm lo, động viên tinh thần và hỗ trợ vật chất cho các đối tượng hưởng chính sách.
Trong đó, những đối tượng chính là: Người có công với cách mạng, người nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người dân ở vùng bị thiệt hại nặng nề do thiên tai, bão, lũ, người dân gặp khó khăn, không đảm bảo mức sống tối thiểu do ảnh hưởng của dịch Covid-19...
Đảm bảo tặng quà đúng đối tượng, đúng chế độ, công khai, minh bạch, tránh trùng lặp, không để lợi dụng, trục lợi chính sách, đảm bảo tất cả các đối tượng đều có quà và nhận được quà trước Tết.
Bảo đảm chăm lo Tết chu đáo, an toàn, lành mạnh cho các đối tượng chính sách đang được chăm sóc tại các cơ sở điều dưỡng người có công và các cơ sở trợ giúp xã hội.
Về lao động, việc làm, an toàn, vệ sinh lao động
Cục An toàn lao động, Cục Việc làm, Cục Quan hệ lao động và Tiền lương, Cục Quản lý lao động ngoài nước phối hợp, hướng dẫn Sở trưởng Bộ LĐ-TB&XH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường kiểm tra và thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn lao động.
Chủ động xây dựng các giải pháp phòng ngừa, xử lý những tranh chấp lao động có thể xảy ra trong dịp Tết Nguyên đán; theo dõi, nắm bắt tình hình lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc biệt là những địa phương tập trung nhiều lao động; quan tâm hỗ trợ người lao động bị giảm sâu thu nhập, mất, thiếu việc làm do ảnh hưởng của dịch Covid-19…
Hỗ trợ các điều kiện để bảo đảm người lao động Việt Nam ở nước ngoài được đón Tết Nguyên đán theo phong tục của dân tộc, phù hợp với điều kiện thực tế.
Về bảo vệ, chăm sóc trẻ em, phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới
Cục Trẻ em, Vụ Bình đẳng giới phối hợp, hướng dẫn Sở trưởng Bộ LĐ-TB&XH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường công tác phòng, chống xâm hại trẻ em, phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em, phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới.
Bảo đảm duy trì các dịch vụ trợ giúp xã hội và kịp thời phát hiện, giải quyết, thông tin về các vấn đề, vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em và liên quan đến quyền trẻ em về Tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em (số 111); bảo đảm cho tất cả trẻ em đều được đón Tết an toàn, vui tươi, lành mạnh.
Về phòng, chống tệ nạn xã hội
Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo dõi, kiểm tra thường xuyên tình hình hoạt động của các cơ sở cai nghiện ma túy, bảo đảm các điều kiện tổ chức đón Tết cho học viên đúng quy định, đồng thời có các biện pháp quản lý chặt chẽ, tuyệt đối không để xảy ra tình trạng học viên bỏ trốn tập thể, phá hoại tài sản, cơ sở vật chất, gây mất ổn định tình hình chính trị, xã hội tại địa phương trong dịp Tết Nguyên đán.
Về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
Thanh tra Bộ phối hợp, hướng dẫn các địa phương thực hiện tốt công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư, hạn chế tối đa tình trạng khiếu kiện vượt cấp; xem xét, xử lý sớm các vụ việc khiếu nại, tố cáo, tránh gây bức xúc, kéo dài; theo dõi, tổng hợp tình hình khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng trong dịp Tết.
Trách nhiệm của giám đốc Sở LĐ-TB&XH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Chỉ thị số 01 của Bộ trưởng Đào Ngọc Dung yêu cầu giám đốc Sở LĐ-TB&XH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nêu cao tinh thần trách nhiệm trong phòng, chống dịch Covid-19; thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản liên quan.
Chỉ đạo các đơn vị chuyên môn thuộc Sở phối hợp chặt chẽ với các đơn vị thuộc Bộ theo dõi sát tình hình tại địa phương trong dịp nghỉ Tết; xử lý kịp thời hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền các công việc, tình huống phát sinh, không để ảnh hưởng đến đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh của nhân dân và doanh nghiệp; thực hiện nghiêm chế độ trực Tết và chế độ thông tin, báo cáo.
Triển khai đúng, đầy đủ, kịp thời Quyết định của Chủ tịch nước về việc tặng quà cho đối tượng người có công với cách mạng nhân dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021 (hoàn thành trước ngày 09/02/2021, tức 28 tháng Chạp).
Nguồn: https://dantri.com.vn/
Link: https://dantri.com.vn/an-sinh/bo-truong-dao-ngoc-dung-ban-hanh-chi-thi-ve-to-chuc-tet-nguyen-dan-tan-suu-20210128073546836.htm
Các tin đã đưa
Những ngành nghề “hot” năm 2021
Ngành Công nghệ thông tin "khát" nhân lực trong năm 2021
Học sinh lớp 10 sẽ học về Luật An ninh mạng
Năm 2020: Tuyển sinh Giáo dục nghề nghiệp khoảng 2,28 triệu người, vượt kế hoạch đề ra
TP HCM kiến nghị tăng hơn 3.600 biên chế công chức
Đơn vị liên kết
TỔNG LƯỢT TRUY CẬP: 000000016621592
TRUY CẬP HÔM NAY: 43
ĐANG ONLINE: 19
Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động TP. HCM
Địa chỉ: 346A Nguyễn Thái Sơn, Phường 4, Quận Gò Vấp, Tp.HCM
Điện thoại:(028) 35889935 - Fax: (028) 35889935
Email: [email protected]
PHẦN MỀM TÍNH TIỀN
(...TRUNCATED) | 1614178347293.1.parquet/105821 | [object Object](...TRUNCATED) | 199.4 |
Tài trợ khoa học: công bằng và khoa học - Tuan's Blog
Sign in
Y Khoa
Giáo Dục – Khoa Học
Văn Hóa
Thời Sự
Tạp Ghi
Nhân Vật
Kỹ Năng Mềm
Gia Đình – Bạn Bè
Sign in
Welcome!Log into your account
your username
your password
Forgot your password?
Password recovery
Recover your password
your email
Search
Nguyen Van Tuan Trang lưu trữ từ blog GS. Nguyễn Văn Tuấn
Y Khoa
Giáo Dục – Khoa Học
Văn Hóa
Thời Sự
Tạp Ghi
Nhân Vật
Kỹ Năng Mềm
Gia Đình – Bạn Bè
Home Uncategorized Tài trợ khoa học: công bằng và khoa học
Uncategorized
Tài trợ khoa học: công bằng và khoa học
September 29, 2015
15
Dạo một vòng TT tôi mới phát hiện bài của … tôi. Số là nhân câu chuyện một anh kĩ sư được Thủ tướng phê chuẩn 1 triệu USD để làm kính cho người mù, tôi có ý bàn một chuyện lớn hơn: tài trợ cho nghiên cứu khoa học sao cho công bằng. Đây là một vấn đề rất quan trọng bên nhà, nhưng tôi nghĩ khó có lối thoát trong vòng 2-3 thập niên tới.
Trong đấu trường xin tài trợ cho khoa học, chuyện thành bại là thường tình. Năm nào tụi tôi cũng viết đề cương xin tài trợ, và năm nào cũng bị bác, không ít thì nhiều. Năm nay, ở Úc trong ngành y, tỉ lệ thành công nghe đồn là dưới 10%, %, lần đầu tiên trong lịch sử NHMRC có con số thất như thế này! Tình hình cạnh trang xin tài trợ càng ngày càng ác liệt. Do đó, có tài trợ bây giờ còn quan trọng hơn cả công bố quốc tế, bởi vì được tài trợ là có bài báo và đem tiền về cho viện/trường. Bọn làm quản lí đại học thì chúng chỉ thấy cái vế sau thôi (đem tiền về cho họ), và họ nghiễm nhiên thêm 20-30% gọi là phí quản lí!
Riêng tôi thì nghĩ rằng mô hình tài trợ hiện nay (của Úc và Mĩ nữa) là sai lầm, cần phải có cải cách sớm, chứ không thì China sẽ qua mặt. Tôi nghĩ VN không nên bắt chước mô hình của Úc hay Mĩ.
Ở trong nước thì có vấn đề lớn hơn tài trợ: vấn đề công bằng và minh bạch. Qua kinh nghiệm trong nước, tôi nhận ra 4 vấn đề chính. Đó là (a) thiếu khách quan trong bình duyệt; (b) mâu thuẫn quyền lợi; (c) chủ nghĩa thân hữu; và (d) khả năng chuyên môn hạn chế hoặc “ngồi nhầm chỗ”. Vấn đề (a) thì ở đâu cũng có, nhưng VN thì hơi đặc biệt và trầm trọng hơn. Hệ quả là nhiều đề tài được/không được tài trợ một cách thiếu thuyết phục, và làm cho nhiều nhà khoa học chân chính nản chí. Có người thề thốt là không xin tài trợ từ Nhà nước nữa.
Mấy năm gần đây nhờ có Nafosted lấy lại lòng tin của những người làm khoa học chân chính. Tôi rất vui vì đã đóng góp một phần cho Nafosted từ ngày mới thành lập, và sau này là làm bình duyệt cho họ. Ước gì cấp tỉnh thành cũng có Nafosted.
=====
http://tuoitre.vn/…/tai-tro-cho-nghien-cuu-khoa…/970668.html
Công bằng và khoa học
Nghiên cứu khoa học, nhất là khoa học thực nghiệm, cần phải có tiền. Có khi rất nhiều tiền. Nhưng vấn đề và cũng là khó khăn lớn mà giới khoa học trăn trở là làm sao chọn đề tài xứng đáng để tài trợ.
Thử tưởng tượng bạn đang quản lý một số tiền hàng chục triệu USD (từ tiền thuế của dân) và muốn dùng số tiền này để tài trợ nghiên cứu khoa học, bạn sẽ chọn đề tài nào để tài trợ? Đây là một quyết định không dễ dàng chút nào, vì quyết định đó đòi hỏi một sự cân nhắc hết sức cẩn thận để đáp ứng hai tiêu chí công bằng và khoa học.
Qui trình bình duyệt
Ở các nước phương Tây, nguồn tài trợ cho nghiên cứu khoa học chủ yếu là từ ngân sách nhà nước. Nhưng nhà nước không trực tiếp quyết định chọn đề tài để tài trợ mà giao quyền này cho giới khoa học.
Thông thường giới khoa học lập ra những hội đồng xét duyệt đề tài, mỗi hội đồng thường có khoảng 10 thành viên, và thành viên là những người có uy tín trong chuyên ngành. Uy tín của họ thể hiện qua những công trình được công bố trên các tập san khoa học chứ không phải có vai vế trong các hiệp hội chuyên môn. Mỗi hội đồng phụ trách một chuyên ngành khoa học để đảm bảo tính chuyên biệt.
Hội đồng xét duyệt dựa trên những tiêu chí cụ thể để đánh giá và cho điểm một đề tài nghiên cứu. Chẳng hạn như họ đánh giá dựa vào bốn tiêu chí chính là: chất lượng khoa học, tầm quan trọng của công trình nghiên cứu, chất lượng của nhóm chủ trì đề tài nghiên cứu, tính khả thi và ngân sách nghiên cứu.
Mỗi tiêu chí có một loạt tiêu chuẩn để người bình duyệt có thể cho điểm. Chẳng hạn như tiêu chí chất lượng có những tiêu chuẩn cụ thể như ý tưởng hay và mới của đề tài nghiên cứu, cách tiếp cận sáng tạo. Chất lượng của nhóm nghiên cứu cũng được đánh giá qua một loạt tiêu chuẩn về năng lực nghiên cứu trong quá khứ, thành tích công bố quốc tế và uy tín trên trường quốc tế. Một khía cạnh quan trọng khác hội đồng cũng xem xét đến là khả năng đóng góp của đề tài nghiên cứu cho sự thịnh vượng và uy danh của quốc gia trên thế giới.
Như một quy luật, hội đồng chọn ra những đề tài có điểm cao nhất để tài trợ. Nhưng điểm chuẩn này thay đổi hằng năm tùy theo ngân sách nhà nước cung cấp. Ở Úc, trong ngành y sinh học chỉ có 10-15% đề cương có điểm cao nhất được đề nghị tài trợ. Bộ trưởng khoa học căn cứ vào đề nghị của hội đồng xét duyệt và ký phê chuẩn tài trợ cho công trình nghiên cứu.
Đó là quy trình chuẩn trong xét duyệt tài trợ đề tài nghiên cứu. Quy trình này có tên tiếng Anh là “peer review”, mà tôi tạm dịch là “bình duyệt”, đã tồn tại trên 100 năm trong thế giới khoa học phương Tây. Quy trình chuẩn này còn được áp dụng ở rất nhiều nước trên thế giới, kể cả ở các nước đang phát triển.
Tuy quy trình bình duyệt mô tả trên được xem là “chuẩn vàng” nhưng trong thực tế có rất nhiều vấn đề. Những vấn đề nổi cộm là tính chủ quan trong việc xét duyệt, mâu thuẫn quyền lợi, chủ nghĩa thân hữu, khả năng chuyên môn hạn chế và đánh giá qua loa.
Các chuyên gia phục vụ trong các hội đồng xét duyệt cũng chỉ là những con người chịu sự chi phối của cảm tính và có khi rất chủ quan trong việc đánh giá. Do đó, điểm của các chuyên gia bình duyệt thường không có độ nhất quán cao. Có những đề cương nghiên cứu chuyên gia bình duyệt cho điểm rất cao nhưng lại có chuyên gia cho điểm rất thấp. Nhưng giả định là số đông sẽ trung bình hóa và đáng tin cậy hơn là cá nhân đơn lẻ.
Một số người do cạnh tranh trong chuyên ngành nên có thể tìm cách “làm khó” người chủ trì đề tài nghiên cứu. Ngược lại, với nhiều trường hợp, người ngồi trong hội đồng bình duyệt có quan hệ chuyên môn hay cá nhân với chủ đề tài, do đó phán xét của họ có thể không hoàn toàn khách quan.
Một vấn đề phổ biến khác là nhiều trường hợp người ngồi trong hội đồng xét duyệt không có chuyên môn tốt để đánh giá đề tài nghiên cứu, nên họ có thể đánh giá sai hoặc đánh giá qua loa, gây ảnh hưởng tiêu cực đến kết cục của đề tài nghiên cứu. Tuy quy trình bình duyệt có nhiều vấn đề nhưng trong thực tế đó là quy trình tốt nhất hiện nay trong các phương pháp đánh giá đề tài nghiên cứu.
Ở Việt Nam, trên nguyên tắc, quyết định tài trợ cho nghiên cứu khoa học cũng được giao cho giới khoa học. Chẳng hạn như quy trình xét duyệt đề tài nghiên cứu của Quỹ NAFOSTED là khá gần với quy trình chuẩn ở các nước phương Tây. Ở cấp tỉnh thành cũng có những hội đồng xét duyệt nhưng do thiếu nhân sự nên vẫn còn khá nhiều bất cập.
Có những người “ngồi nhầm chỗ”, tức những người chưa bao giờ làm nghiên cứu và chưa bao giờ được tài trợ cho nghiên cứu, nhưng lại ngồi trong các hội đồng xét duyệt đề tài của người đã có tài trợ và làm nghiên cứu khoa học! Tình trạng ngồi nhầm chỗ khá phổ biến ở các cấp tỉnh thành, do một phần rất khó tìm những chuyên gia thích hợp và có tư cách khoa học (như có công bố quốc tế tốt và uy tín trong chuyên ngành) để phục vụ trong các hội đồng xét duyệt.
Ngoài ra, còn có vấn đề mâu thuẫn quyền lợi và quan hệ cá nhân nên hệ quả là kết quả bình duyệt không mang tính thuyết phục cao. Nhiều đề tài nghiên cứu chất lượng thấp lại nhận được tài trợ, ngược lại những đề tài có chất lượng cao và mới thì bị bác bỏ.Sự bất cập này gây tác hại về tâm lý rất lớn đến giới nghiên cứu vì họ không tin vào tư cách chuyên môn của hội đồng xét duyệt, do đó không muốn nộp đề cương nghiên cứu.
Yếu tố chính trị
Tài trợ cho nghiên cứu khoa học qua quy trình bình duyệt có những điểm yếu đáng kể. Ngoài những vấn đề nêu trên, các hội đồng bình duyệt thường có xu hướng tài trợ các trường nổi tiếng hoặc các viện đẳng cấp “tinh hoa” (elite).
Các hội đồng bình duyệt cũng có khuynh hướng chọn những đề tài an toàn, những đề tài tuân theo các trường phái hiện hành, do đó các đề tài mang tính đột phá thường bị bác bỏ. Thật vậy, rất nhiều đề tài nghiên cứu mà sau này được trao giải thưởng Nobel dù trước đó hay bị các hội đồng bình duyệt từ chối tài trợ.
Để đáp ứng những phê phán chính đáng của giới khoa học và để yểm trợ những nhà khoa học có viễn kiến tốt, chính phủ tạo ra một cơ chế tài trợ khoa học mới và đặc biệt, mà tiếng Anh hay gọi là “academic earmarking” – có thể hiểu là quỹ đặc biệt.
Đây là một cơ chế tài trợ mang tính chính trị, và do đó bỏ qua quy trình bình duyệt chuẩn trong khoa học. Chỉ riêng năm 2003, Quốc hội Mỹ dành ra một ngân sách 2 tỉ USD cho quỹ đặc biệt để tài trợ 1.964 dự án đặc biệt.
Như có thể hiểu được, cơ chế tài trợ theo quỹ đặc biệt này gây ra nhiều tranh cãi dai dẳng. Giới khoa học quá quen thuộc với quy trình bình duyệt công khai gièm pha và chỉ trích các quỹ đặc biệt, vì chúng có thể đe dọa đến sự liêm chính của khoa học và giảm ngân sách cho nghiên cứu khoa học.
Nhưng ngược lại, những nhà khoa học được tài trợ từ các quỹ đặc biệt thì hoan hỉ vì họ không phải bị “hành” bởi các hội đồng bình duyệt mà có khi họ không cảm thấy thuyết phục.
Ở Việt Nam, ngoài quy trình bình duyệt chuẩn trên, thỉnh thoảng đó đây vẫn có những quyết định tài trợ cho khoa học mà không dựa vào một hội đồng xét duyệt nào. Những quyết định có thể mang tính chính trị như thế, trước là minh chứng cho sự quan tâm của giới lãnh đạo đến khoa học, sau là gieo một niềm tin mới cho giới khoa học, nhất là những người ở giai đoạn đầu trong sự nghiệp khoa học. Dĩ nhiên, những quyết định như thế này cũng làm các nhà khoa học trong cơ chế bình duyệt cảm thấy họ không được đối xử công bằng.
Rốt cuộc thì câu hỏi cần phải trả lời là nhà nước muốn tài trợ cho khoa học như thế nào? Trong khi các chương trình tài trợ theo cơ chế quỹ đặc biệt tăng theo thời gian, nhiều câu hỏi khác được đặt ra: Tài trợ cho khoa học có nên quyết định bởi những chính trị gia?
Quỹ đặc biệt có hiệu quả nâng cao năng lực khoa học của các trường đại học? Quỹ đặc biệt có duy trì hay nâng cao khả năng sáng tạo khoa học của một quốc gia hay không? Một trong những nguy cơ có thể thấy trước là một khi cơ chế tài trợ khoa học từ các quỹ đặc biệt trở thành thường quy sẽ tạo ra một kỹ nghệ vận động hành lang của các trường đại học hay viện nghiên cứu với hệ quả là các chuẩn mực vàng như công bằng và khoa học sẽ bị đe dọa.
TAGS
bình duyệt
quĩ đặc biệt
tài trợ cho nghiên cứu khoa học
Facebook
Twitter
Pinterest
WhatsApp
Previous articleVượt Thái Lan chỉ số đổi mới toàn cầu: Đừng tự mãn!
Next articleKhoa học thời toàn cầu hoá: Lạm phát tác giả bài báo khoa học
admin
RELATED ARTICLESMORE FROM AUTHOR
Uncategorized
Năng suất khoa học Việt Nam qua công bố quốc tế 2001 – 2015
Uncategorized
"Dạy cho con tiếng nói thật thà … "
Uncategorized
Bàn tiếp về đào tạo ngành y
Uncategorized
Còn quá sớm để đánh giá chất lượng đào tạo
Uncategorized
Xúc phạm và tâm thần: Ai xúc phạm ai?
About
Contact
© Trang lưu trữ blog GS. Nguyễn Văn Tuấn
(...TRUNCATED) | 1614178347293.1.parquet/144024 | [object Object](...TRUNCATED) | 199.2 |
"Cảm hứng bất tận - chương trình đặc biệt Tết Tân Sửu: Mãn nhãn, mãn tai v(...TRUNCATED) | 1614178347293.1.parquet/67606 | {"file_path":"/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet","token_count":659(...TRUNCATED) | 199.1 |
"Tổng hợp các phong cách thiết kế được ưa chuộng nhất năm 2020\nHome\nThiết K(...TRUNCATED) | 1614178347293.1.parquet/53944 | {"file_path":"/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet","token_count":585(...TRUNCATED) | 199 |
"U đại trực tràng ở người già là gì? Một số cách điều trị hiệu quả\nCổ(...TRUNCATED) | 1614178347293.1.parquet/118408 | {"file_path":"/data/cuong/commoncrawl/CC-MAIN-2021-10/raw/1614178347293.1.parquet","token_count":668(...TRUNCATED) | 198.9 |
End of preview. Expand
in Dataset Viewer.
No dataset card yet
New: Create and edit this dataset card directly on the website!
Contribute a Dataset Card- Downloads last month
- 817